Bản án 113/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 113/2018/HS-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 121/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo: Đinh Đ, sinh ngày 29 tháng 12 năm 1997 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường T, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp không; trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh H và bà Lê O; vợ, con chưa có; tiền án không; tiền sự không; bị bắt tạm giữ ngày 21/4/2018, tạm giam ngày 23/4/2018 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lưu T. Địa chỉ: Đường M, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Hoàng C. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 21/4/2018, Đinh Đ gọi điện thoại cho một người đàn ông tên Hậu (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) để hỏi mua nợ 200.000 đồng ma túy tổng hợp dạng đá, Hậu đồng ý và hẹn ra quán điện tử Thiên Nhiên tại số 72, đường Nhị Thanh, phường Tam Thanh để nhận ma túy. Khi đến điểm hẹn Hậu đưa cho Đinh Đ 01 túi nilon đựng ma túy đá, Đinh Đ cầm gói ma túy về nhà. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày Lưu T đến chơi, Đinh Đ đã lấy một ít ma túy đá ra cùng Lưu T sử dụng, số ma túy còn lại Đinh Đ cất vào ví da. Khoảng 16 giờ 20 Đinh Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12P1-183.22 chở Lưu T đi cắt tóc, trên đường đi Đinh Đ đến quán Thiên Nhiên để trả Hậu 200.000 đồng mua ma túy. Sau khi trả tiền xong Đinh Đ và Lưu T về nhà không đi cắt tóc nữa. Trên đường về khoảng 17 giờ 00 phút ngày 21/4/2018, khi đến đường Tam Thanh, tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang trong ví giả da màu nâu để trong túi quần bên trái của Đinh Đ có 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 156/KL-PC54 ngày 23/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đinh Đ gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,120 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 09 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đinh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đinh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định và 01 ví da màu nâu. Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 21/4/2018, tại đường Tam Thanh, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn bị cáo Đinh Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,120 gam ma túy Methamphetamine, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm phục vụ lợi ích bất hợp pháp của bản thân. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật.

 [4] Về nhân thân: Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người đã trưởng thành nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện, nên thường xuyên sử dụng chất ma túy.

 [5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo có bố là ông Đinh H được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiễn sỹ vẻ vang hạng ba. Vì vậy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [7] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 08/5/2018 thể hiện bị cáo không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [9] Về xử lý vật chứng căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 ví da màu nâu không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen, số Imel1 980056004539249 là công cụ phương tiện phạm tội cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.

 [10] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [11] Đối với người đàn ông tên Hậu bán ma túy cho bị cáo, do không xác minh được lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý trong vụ án.

 [12] Chiếc xe máy Honda Wave biển kiểm soát 12P1-183.22 ngày 22/5/2018 Cơ quan điều tra đã trả lại cho Lưu T, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Đ 01 (một) năm tù. Thời hạn chấphành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm  giữ 21/4/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy Methamphetamine) sau giám định và 01 ví da màu nâu.

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen, số Imel1 980056004539249.

 (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27 tháng 6 năm 2018).

4. Về án phí: Bị cáo Đinh Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về