Bản án 114/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 114/2018/HS-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 28 tháng12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:111/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2018/QĐXXST-HS ngày16 tháng 12 năm 2018 đốivới các bị cáo:

1. Lê Tiến T, sinh ngày 12/9/1983 tại xã Ch, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: Thôn 10, xã Ch, huyện H, Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tiến D, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1955; có vợ là Phạm Thị O, sinh năm 1986; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/7/2018 đến ngày 12/7/2018. Có mặt.

2. Lê Văn L, sinh ngày 07/3/1987 tại xã Tr, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; trú tại: thôn

4, xã Tr, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ, sinh năm 1952 và bà Lê Thị H, sinh năm 1955; có vợ là Huỳnh Thị B, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không;bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/7/2018 đến ngày 12/7/2018. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn A, sinh năm 1996. “Vắng mặt” Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Anh Lê Vạn M, sinh năm 1994. “Vắng mặt” Địa chỉ: thôn Tr, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

3. Nguyễn Nguyễn Đình V, sinh năm 1985. “Vắng mặt”

4. Anh Lê Tiến L, sinh năm 1989. “Vắng mặt” Đều ở địa chỉ: thôn 10, xã Ch, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

5. Anh Nguyễn Tất Đ, sinh năm 1994. “Vắng mặt” Địa chỉ: thôn 6, xã Ch, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

6. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1986. “Vắng mặt” Địa chỉ: thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 03/7/2018, Lê Tiến T và Lê Văn L bàn bạc thống nhất cùng nhau thực hiện việc nhận cá độ bóng đá tại quán cà phê Yến Linh ở xã Ch của T. Hai bị cáo thỏa thuận L sẽ vào mạng tham khảo tỷ lệ kèo trận Thụy Điển và Thụy Sĩ (trong khuôn khổ vòng 1/8 FIFA WORLDCUP), sau đó đưa ra tỷ lệ kèo cho các đối tượng tham gia cá độ bóng trong trận đấu, đồng thời là người báo giá, ghi kèo cho khách; còn T thanh toán tiền thắng thua cho khách sau khi kết thúc từng hiệp thi đấu của mỗi trận bóng đá. Sau đó sẽ tổng kết tiền thắng thua và chia đều cho nhau theo tỷ lệ 50/50; L đã dùng điện thoại Sam sung A7 lên mạng tham khảo các tỷ lệ kèo trận Thụy Điển và Thụy Sĩ và đưa ra các kèo bóng vào từng thời điểm khác nhau trong trận đấu như: kèo bằng bóng ăn 90 (nghĩa là nếu người chơi cược Thụy Sĩ hết 90 phút kể cả bù giờ, tỷ số hòa thì người chơi không thắng, không thua, sẽ trả lại toàn bộ tiền cược, nếu Thụy Điển thắng Thụy Sĩ với tỷ số bất kỳ thì người chơi được hưởng 90% số tiền cược); kèo đồng banh ¼ X tỷ số hòa cược đội cửa trên thua 50% X-X và ngược lại cược đội cửa dưới thắng 50% X; kèo Tài Sửu gồm 2H (2 hòa), 2 ¼ (hai thua), 2 ½ (hai chết), 2 ¾ (ba ăn)... các số phía sau quy ước số tiền cược được hưởng, kèo góc là tổng số quả đá phạt góc trong một trận đấu của cả hai đội; kèo Tài Sửu thẻ vàng, thẻ đỏ là tính tổng số thẻ vàng, thẻ đỏ của cả hai đội. Người chơi có thể tham gia bắt bóng, Tài Sửu, góc, thẻ vàng, thẻ đỏ trong cả trận hoặc từng hiệp (hiệp 1, hiệp 2, hiệp phụ) hoặc penalty. Việc đặt cược từng trận đấu có thể thanh toán trước hoặc sau khi kết thúc trận đấu, tùy theo giao ước giữa các bị can và các đối tượng tham gia đánh bạc.

Toàn chuẩn bị sẵn 01 bút bi mực đen, 01 tờ giấy học sinh đưa cho L ghi các kèo cho khách, còn Toàn là người trực tiếp thanh toán tiền thắng, thua cho khách sau khi kết thúc từng hiệp thi đấu hoặc khi kết thúc trận bóng đá, tùy thỏa thuận với khách.

Trong trận bóng đá Thụy Sĩ - Thụy Điển đá tối ngày 03/7/2018 có những người đặt cược gồm:

Nguyễn A đã đặt kèo bóng “xỉu góc hiệp 1: 4 ½ ăn 80”: đánh 1.000.000 đồng (một triệu đồng), báo kèo và giao tiền cho L, L đưa lại tiền cho T. Hết hiệp 1, A thắng cược nên T trả thưởng cho A, tổng là 1.800.000 đồng. Hiệp 2 A đặt kèo “xỉu thẻ vàng 1 ½ ăn 70” với số tiền 1.000.000 đồng và đã giao tiền cho T. Tổng số tiền A đánh bạc là 2.800.000đồng.

Lê Vạn M đặt cược 1 kèo “tài hiệp 2, ăn 80” với số tiền 2.000.000 đồng. M mới báo kèo với L chứ chưa đặt tiền, thỏa thuận với T là xong trận sẽ thanh toán thắng thua.

Nguyễn Tất Đ, Nguyễn Đình V đặt cược chung 1 kèo, chọn cửa “Thụy Điển ăn 80” với số tiền 2.000.000 đồng, trong đó Định đưa 1.000.000 đồng cho L, L đưa cho T. Còn V chưa đưa tiền cho ai, thỏa thuận xong trận mới thanh toán.

Nguyễn Văn S báo kèo với T đặt cược 1 kèo “Thụy Điển ăn 80” với số tiền 500.000 đồng, đưa tiền cho T, T lại báo với L để ghi kèo vào giấy.

Đến khoảng 22 giờ 45’ngày 03/7/2018, khi Lê Tiến T và Lê Văn L đang đánh bạc dưới hình thức “nhận cá độ bóng đá” với những người chơi cá độ là Nguyễn A,Lê Vạn M, Nguyễn Tất Đ, Nguyễn Đình V, Nguyễn Văn S, thì bị lực lượng công an Hoằng Hóa bắt quả tang. Thu giữ tại chỗ 01 bút bi, 01 bảng ghi chép tỷ lệ bóng đá ngày 03/7/2018, 01 điện thoại Samsung A7 màu vàng không lắp sim, thu trên người Lê Tiến T số tiền 9.200.000 đồng, thu trên người Lê Văn L số tiền 1.100.000 đồng, thu giữ trên người Nguyễn A số tiền 1.800.000 đồng, thu giữ trên người Lê Vạn M số tiền 2.000.000 đồng, thu giữ trên người Nguyễn Đình V số tiền 1.000.000 đồng. Tổng số tiền thu giữ là 15.100.000 đồng.

Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thể hiện trong trận bóng giữa Thụy Điển và Thụy Sĩ, các bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L đã đánh bạc dưới hình thức bóng đá, trong đó các người chơi đã tham gia chơi gồm tiền đặt cược và tiền thắng cược, tổng là 7.300.000 đồng. Số tiền 1.100.000 đồng thu trên người L, L khai là tiền để đưa con đi viện. Số tiền 9.200.000 đồng thu giữ trên người T gồm số tiền các người chơi cá độ đã nộp tổng là 1.700.000 đồng, trong đó: A nộp 1.000.000đ – 800.000 trúng thưởng = 200.000 đồng, Đ = 1.000.000 đồng, S đưa là 500.000 đồng. Số còn lại: 9.200.000 đ – 1.700.000đ = 7.500.000 đồng là tiền của T (T có từ việc thu chi bán quán cà phê).

Căn cứ Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì số tiền chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ cá độ đã nhận của người chơi và số tiền chủ các độ phải bỏ ra để trả cho người trúng. Như vậy xác định số tiền các bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L dùng để đánh bạc là 7.300.000 đồng (gồm 6.500.000đ là tiền người chơi cá cược và 800.000đ tiền trả thưởng).

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc đúng như nêu trênphù hợp với tài liệu chứng cứ và lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án.

Đối với những người chơi cá độ là Nguyễn A, Lê Vạn M, Nguyễn Tất Đ, Nguyễn Đình V và Nguyễn Văn S đã cá cược nhưng với số tiền chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị Công an huyện Hoằng Hóa xử lý hành chính.

Bản cáo trạng số 117/CT-VKSHH ngày 06/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa truy tố bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, xác định số tiền các bị cáo thực hiện việc đánh bạc là 7.300.000 đồng (Bảy triệu ba trăm nghìn đồng).

Đề nghị áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 và khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự, xử bị cáo Lê Tiến T từ 09 đến 12 tháng tù trừ đi 9 ngày tạm giữ; phạt bổ sung bằng tiền: 10 triệu đồng; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử bị cáo Lê Văn L từ 06 đến 09 tháng tù, trừ đi 9 ngày tạm giữ; vì gia đình L thuộc hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với bị cáo.

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 bút bi, tịch thu thanh lý sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại Samsung A7, tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 7.300.000đ (bảy triệu ba trăm nghìn đồng) được dùng vào việc phạm tội đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa, trả lại cho bị cáo Lê Văn L số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng) không phải là tiền dùng vào việc phạm tội. Tiếp tục quy trữ số tiền 6.700.000 đồng của Lê Tiến T để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án phạt bổ sung của bị cáo T.

Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại lời nói sau cùng, các bị cáo đều có ý kiến xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì các bị cáo đã rất ăn năn hối hận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với hành vi của các bị cáoLê Tiến T và Lê Văn L là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đánh bạc hình thức nhận cá độ bóng đá với số tiền đánh bạc là 7.300.000 đồng (bảy triệu ba trăm nghìn đồng). Lê Tiến T và Lê Văn L đã bàn bạc thống nhất thực hiện hành vi nhận cá độ bóng đá ngay tại quán cà phê của T, Lê Văn L là ngườira kèo, báo kèo, báo giá và ghi kèo, còn T thanh toán tiền thắng, thua cho khách sau khi kết thúc từng hiệp hoặc mỗi trận bóng đá. Hành vi của bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn Lđã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Đánh bạc”, tội phạm, hình phạt được quy định và trừng trị tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, là một tệ nạn xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội. Đây là vụ án đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá là loại hình thức phạm tội lần đầu được phát hiện, truy tố và xét xử trên địa bàn huyện, do đó phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục các bị cáo và giáo dục chung cho xã hội.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòacác bị cáo đều thành khẩn khai báo và đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bố bị cáo Lê Tiến T và bố bị cáo Lê Văn L đều là người có công với cách mạng (có huy chương kháng chiến, kỷ niệm chương chiến sỹ Trường Sơn). Vì vậy áp dụng quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để lượng giảm cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật nhà nước ta.

Trong vụ án các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn,dù có sự bàn bạc, phân công nhưng ở mức độ bột phát, tuy nhiên cần phần hóa vai trò của từng bị cáo trong vụ án về hành vi Đánh bạc để có mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo.

Bị cáo Lê Tiến T sử dụng quán cà phê của mình để làm nơi phạm tội, trực tiếp là người đứng ra thanh toán tiền thắng thua nên giữ vai trò đầu và phải chịu mức hình phạt cao hơn. Bị cáo Lê Văn L tự vào mạng tra cứu, ra kèo, báo kèo và ghi kèo nên giữ vai trò thứ hai nên chịu mức hình phạt thấp hơn.

Tuy nhiên căn cứ trên tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy cả hai bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên áp dụng quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018, không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà xử phạt bị cáo hình phạt tù cho hưởng án treo cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo thành người lương thiện.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đánh bạc nhằm mục đích thu lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền. Tuy nhiên đối với bị cáo Lê Văn L thuộc diện hộ cận nghèo nên không áp dụng đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy bộ 01 bút bi, tịch thu thanh lý sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Samsung A7, tịch thu thanh lý sung quỹ nhà nước số tiền 7.300.000đ được dùng vào việc phạm tội đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Tiếp tục quy trữ của bị cáo Lê Tiến T là 6.700.000 đồng để bảo đảm cho việc thi hành hình phạt bổ sung. Trả lại cho bị cáo Lê Văn L số tiền 1.100.000 đồng là tiền không dùng vào việc phạm tội.

Về án phí:Vì các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo luật định, bị cáo

Lê Văn Luyện không phải chịu án phí do thuộc diện được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L phạm tội “Đánh bạc”, Căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, 58, Điều 65 và khoản 2 Điều 35 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Tiến T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung bằng tiền: 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58 và Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn L 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách giao bị cáoLê Tiến T cho Ủy ban nhân dân xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; giao bị cáo Lê Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Tân Trường, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa để giám sát giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Lê Tiến T và Lê Văn L cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi đã qua sử dụng;

- Tịch thu thanh lý sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Samsung A7 màu vàng, không sim. Hai vật trên theo biên bản giao nhận vật chứng số 21/BBGN ngày 21/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 7.300.000đ được dùng vào việc phạm tội đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Tiếp tục quy trữ của bị cáo Lê Tiến T số tiền không dùng vào việc phạm tội là 6.700.000 đồng (sáu triệu bảy trăm nghìn đồng) để bảo đảm cho việc thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Trả lại cho bị cáo Lê Văn L số tiền 1.100.000 đồng (một triệu một trăm nghìn đồng); toàn bộ số tiền này theo biên lai thu tiền số AA/2015/0000859 ngày 21/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa.

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Tiến Tphải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí cho bị cáo Lê Văn L.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:114/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về