Bản án 114/2019/HSST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH TH

BẢN ÁN 114/2019/HSST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 111/2019/HSST, ngày 28 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:119/2019/QĐXXST-HS ngày 27/3/2019 đối với bị cáo:

Tống Thanh L, Sinh ngày 22/11/1970; Tên gọi khác: Tống Thanh Sang; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ 16, phường Tân Thịnh, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Xe ôm; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Tống Đình Hưởng, sinh năm 1945 và con bà: Ngô Thị Được, sinh năm 1950; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lại Thị Yên, sinh năm 1979, có 01 con, sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại Bản án số 338/HSST ngày 22/12/1994 của Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xử phạt 06 tháng tù giam về tội “ Trộm cắp tài sản của công dân”, đã chấp hành xong hình phạt, án phí vào tháng 6/1995.

+ Tại Bản án số 193/HSST ngày 15/8/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh TH và bản án hình sự phúc thẩm số 2941 ngày 28/11/2000 của Tòa phúc thẩm tại Hà Nội xử phạt 14 năm tù giam về các tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ” và “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong bản án ngày 17/4/2009.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 03/12/2018 đến nay. ( Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Lại Thị Yên, sinh năm 1979(Có mặt) Trú tại: Tổ 16, phường Tân Thịnh, TP TH, tỉnh TH.

* Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 (Vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ 13, phường Đồng Quang, thành phố TH, tỉnh TN.

* Người làm chứng:

2. Ông Tống Đình D, sinh năm 1972 (Có mặt tại phiên tòa).

HKTT: Tổ 7, phường Đồng Quang, thành phố TH, tỉnh TN.

3. Ông Lê Hoài N sinh năm 1971 (Vắng mặt tại phiên tòa).

HKTT: Xóm Tân Thái, xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 25 phút ngày 03/12/2018, tổ công tác cua Công an phường Đồng Quang, thành phố TH tiến hành tuần tra, kiểm soát tại khu vực Bến xe khách TH, khi đi tới đường bê tông dân sinh sau Bến xe khách, thuộc tổ 13, phường Đồng Quang, thành phố TH thì phát hiện thấy có 01 người đàn ông đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20L5-0311 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra người đàn ông khai tên là Tống Thanh L. Tiến hành kiểm tra tổ công tác phát hiện tại túi áo ngực bên trái L đang mặc có 01 gói giấy màu vàng, kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng, giao nộp cho tổ công tác. L khai là Heroine L vừa mua được và cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có phạm tội quả tang đối với Tống Thanh L và thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Tống Thanh L là 0,138 gam. Niêm phong ký hiệu L gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 87/KL-PC09 ngày 10/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu L gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,138 gam.

Tại cơ quan điều tra, Tống Thanh L khai nhận: Khoảng 11 giơ 00 phút, ngày 03/12/2018, L điều khiển xe mô tô BKS 20L5-0311 một mình đi từ Bến xe khách trung tâm thành phố TH xuống ngã ba đường đi lên cao tốc (thuộc phường Tân Lập, thành phố TH ) để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây L gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng (là Heroine) với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Sau khi mua ma túy xong, L cất vào trong túi áo phía trước bên trái L đang mặc rồi điều khiển xe mô tô trở lại khu vực Bến xe khách TH tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của công an phường Đồng Quang, phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 110/CT-VKSTPTN ngày 25/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Tống Thanh L về tội ”Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng : Điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015 xử phạt: bị cáo Tống Thanh L từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo L không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo L nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 11 giờ 25 phút ngày 03/12/2018, tại khu vực tô 13, phường Đồng Quang, thành phố TH, Tống Thanh L đang tàng trữ 0,138 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Đồng Quang, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Tống Thanh L đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c. Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2000 đã từng bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục sa vào con đường nghiện ngập dẫn đến phạm tội . Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội. Mức hình phạt mà viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, cần được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu L bên trong chứa ma túy.

- Về chiếc xe mô tô BKS 20L5-0311 L sử dụng để đi mua ma túy quá trình điều tra cơ quan Công an xác định là xe của chị Lại Thị Yên (vợ của L), tuy nhiên chị Yên không biết L sử dụng xe để đi mua ma túy, nên trả lại chị Lại Thị Yên 01 xe mô tô BKS: 20L5-0311, nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh – đen; dung tích xi lanh: 97. Số khung RLHHC0902Y219100; số máy HC09E-6219101 để quản lý, sử dụng.

[7] Về án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, L khai mua của một nam thanh niên không rõ, lai lịch, địa chỉ, quá trình điều tra không xác định được lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Đim c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Tống Thanh L (tức Tống Thanh Sang) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Tống Thanh L: 24( Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ tạm giam 03/12/2018.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS năm 2015: Quyết định tạm giam bị cáo Tống Thanh L 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 :

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu L bên trong chứa ma túy.

- Trả lại chị Lại Thị Yên 01 xe mô tô BKS: 20L5-0311, nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE, màu sơn Xanh – Đen, dung tích xi lanh: 97. Số khung RLHHC0902Y219100; số máy HC09E-6219101.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, biên bản giao nhận vật chứng số 175 ngày 27/2/2019 ).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Tống Thanh L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 114/2019/HSST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:114/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về