Bản án 119/2017/HS-PT ngày 16/08/2017 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 119/2017/HS-PT NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI

Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang mở phiên tòa xét xử lưu động phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2017/HSPT ngày 06/7/2017 đối với bị cáo Trần Huyền T do có kháng cáo của bị cáo Trần Huyền T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HS-ST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.

Bị cáo có kháng cáo: Trần Huyền T, sinh năm 1990; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp T, xã S, huyện Đ, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 03/12; con ông Trần Văn Tỷ, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Thủy, sinh năm 1962; có chồng tên Bùi Văn Hái (không đăng ký kết hôn), sinh năm 1983 và có 02 con, nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị tạm giữ từ ngày 24/12/2016 đến ngày 30/12/2016 được tại ngoại cho đến nay; có mặt. (Trong vụ án, những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo).

NHẬN THẤY

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ ngày 24/12/2016, Lực lượng chống buôn lậu Phòng Cảnh sát Kinh tế Công an tỉnh An Giang phát hiện Huỳnh Anh Kiệt điều khiển xe mô tô chở Thái Quốc Minh, Nguyễn Thị Tuyết Mai và Trần Huyền T hướng từ Gò Tà Mâu (Campuchia) đến khu vực tổ 04, khóm Vĩnh Chánh 1, phường Vĩnh Nguơn (cách chốt Biên phòng Vĩnh Nguơn khoảng 500 mét), T mang theo 209.000.000 đồng. Lực lượng Cảnh sát kinh tế tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vt chứng thu giữ của Trần Huyền T:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO CE0700 cùng sim số mạng Viettel;

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Trần Huyền T;

- Tiền Việt Nam 209.000.000 đồng.

Căn cứ Kết luận giám định số 63/KLGL-PC54 ngày 23/02/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh An Giang, xác định: 02 tờ tiền polymer mệnh giá 50.000 VNĐ, 99 tờ tiền polymer mệnh giá 100.000 VNĐ và 398 tờ tiền polymer mệnh giá 500.000 VNĐ, là tiền thật. Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 05/01/2017, tại tổ 4 khóm Vĩnh Chánh 1, phường Vĩnh Nguơn, Thành phố Châu Đốc ghi nhận: nơi đối tượng Trần Huyền T bị lực lượng chống buôn lậu Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh An Giang chặn lại kiểm tra khi đang đi hướng từ Gò Tà Mâu (Campuchia) đến đường Tuy Biên, khóm Vĩnh Chánh 1. Vị trí này nằm cặp lề đường bên trái cách mốc cố định về hướng đường Tuy Biên 08 mét và cách cột mốc biên giới số 265 về hướng đường Tuy Biên khoảng 500 mét.

Ngày 24/12/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc ban hành Quyết định tạm giữ đối với Trần Huyền T để điều tra về hành vi “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Đến ngày 30/12/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can, Đề nghị hủy bỏ tạm giữ và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Tại bản Cáo trạng số 13/VKS.HS ngày 13 tháng 3 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc đã truy tố bị cáo Trần Huyền T về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 154 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HS-ST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Huyền T phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 154, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009;  Xử phạt Trần Huyền T: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày bắt chấp hành hình phạt tù, nhưng được khấu trừ vào thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam (24/12/2016 đến 30/12/2016); Ngoài ra, bản án sơ thẩm có tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định. Ngày 07/6/2017, bị cáo Trần Huyền T có đơn kháng cáo yêu cầu xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: bị cáo Trần Huyền T thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu và xử phạt bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” là không oan. Nay bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo yêu cầu xin được giảm nhẹ hình phạt hoặc được hưởng án treo vì bị cáo có con còn nhỏ cần chăm sóc, nuôi dưỡng và đang mang thai, bị cáo không biết việc nhận tiền gửi mang từ Campuchia về Việt Nam là vi phạm pháp luật.

Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu quan điểm về vụ án và đề xuất với Hội đồng xét xử: Bị cáo có hành vi vận chuyển tiền tệ trái phép qua biên giới từ Campuchia về Việt Nam với số tiền 209.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” theo điểm a khoản 1 Điều 154 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ. Cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp, nhưng xem xét toàn diện vụ án, bị cáo đang mang thai và nhân dịp các ngày lễ lớn của dân tộc: Quốc khánh 2-9, ngày sinh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sửa án sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử bị cáo từ 06 đến 07 tháng tù đủ giáo dục và răn đe bị cáo. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và để bảo đảm sự an ninh cho khu vực biên giới nên không chấp nhận yêu cầu xin hưởng án treo của bị cáo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay lời khai của bị cáo Trần Huyền T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Có đầy đủ căn cứ xác định rằng: bị cáo đã có hành vi vận chuyển trái phép 209.000.000 đồng qua từ gò Tà Mâu thuộc lãnh thổ Campuchia vào Việt Nam mà không khai báo với hải quan cửa khẩu Việt Nam là vi phạm pháp luật. Căn cứ Kết luận giám định số 63/KLGL-PC54 ngày 23/02/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh An Giang, xác định: 02 tờ tiền polymer mệnh giá 50.000 VNĐ, 99 tờ tiền polymer mệnh giá 100.000 VNĐ và 398 tờ tiền polymer mệnh giá 500.000 VNĐ, là tiền thật. Hành vi của bị cáo T đã phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, do đó Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và tuyên bố bị cáo Trần Huyền T phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, theo điểm a khoản 1 Điều 154 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ.

Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt hoặc được hưởng án treo, thấy: Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo phải biết được việc vận chuyển tiền tệ qua biên giới không khai báo với hải quan Việt Nam là vi phạm pháp luật, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vận chuyển 209.000.000 đồng từ Campuchia vào Việt Nam. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước ta.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang nuôi con nhỏ theo các điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội cao nên việc bị cáo xin được hưởng án treo Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận.

Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét cần giảm một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, xử phạt bị cáo 06 tháng tù phù hợp đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay. Do kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003:

1.  Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Huyền T, sửa bản án sơ thẩm số 21/2017/HS-ST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc về hình phạt. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 154, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009: Xử phạt: Bị cáo Trần Huyền T 06 (sáu) tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án, nhưng được khấu trừ vào thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam (từ ngày 24/12/2016 đến ngày 30/12/2016).

2. Về án phí: Áp dụng điểm h, khoản 2, Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo Trần Huyền T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HS-ST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

685
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2017/HS-PT ngày 16/08/2017 về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới

Số hiệu:119/2017/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về