Bản án 119/2018/DS-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY – TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 119/2018/DS-ST NGÀY 23/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 23 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 310/2017/TLST- DS ngày 19 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp “Hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2018/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2018/QĐST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Ngọc H – sinh năm 1974; Cư trú tại: thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Chị Lâm Nguyễn Tuyết T – sinh năm 1980; Cư trú tại: thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

Đại diện ủy quyền: Anh Nguyễn Hoàng A – sinh năm 1974; Cư trú tại: Ấp L1, xã L2, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Chị H, anh A có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai chị Võ Thị Ngọc H trình bày: Chị có tham gia 01 dây hụi do chị T làm chủ, hụi khui ngày 20/9/2016 âm lịch, loại hụi 2.000.000 đồng/tháng, có tất cả 23 phần, chị tham gia 01 phần và chị đóng được 09 kỳ hụi sống, mỗi kỳ chị đóng từ 1.350.000 đồng đến 1.650.000 đồng, chị đã đóng hụi với tổng số tiền là 13.540.000 đồng, phần hụi này chị chưa hốt thì hụi bị bể vào tháng 6/2017 âm lịch.

Qua đối chiếu hụi giữa chị và chị T tại Tòa án vào ngày 28/02/2018 giữa hai bên thống nhất số tiền hụi chị H đã đóng cho chị T là 12.965.000 đồng.

Nay chị yêu cầu chị T trả cho chị số tiền 12.965.000 đồng, trả 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật và chị không yêu cầu tính lãi.

* Tại biên bản hòa giải ngày 28/02/2018 bị đơn chị Lâm Nguyễn Tuyết T trình bày: Chị H có chơi 01 dây hụi do chị làm chủ, cụ thể dây hụi khui ngày 20/9/2016 âm lịch, loại hụi 2.000.000 đồng/tháng và chị H đóng được 09 kỳ hụi sống với số tiền là 12.965.000 đồng, phần hụi này chị H chưa hốt thì hụi đã bị bể. Chị thừa nhận chị còn nợ chị H số tiền hụi trong dây hụi này là 12.965.000 đồng.

Nay chị đồng ý trả cho chị H số tiền 12.965.000 đồng, trả 01 lần không khả năng nên chị xin được trả dần mỗi tháng 200.000 đồng cho đến khi trả xong nợ.

* Tại phiên tòa, nguyên đơn chị H vẫn giữ yêu cầu đòi chị T trả số tiền hụi là 12.965.000 đồng mà hai bên đã đối chiếu vào ngày 28/02/2018, yêu cầu trả 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi.

Anh A là đại diện ủy quyền của bị đơn chị T trình bày: Chị T thừa nhận có nợ chị H số tiền hụi là 12.965.000 đồng. Chị T đồng ý trả cho chị H số tiền trên, nhưng trả 01 lần không khả năng vì hiện nay hoàn cảnh kinh tế của chị T khó khăn và chị T đang khởi kiện để thu hồi các khoản nợ người khác nợ chị, khi nào chị T thu hồi xong các khoản nợ đó thì chị sẽ trả số tiền trên cho chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định các vấn đề sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Chị Võ Thị Ngọc H yêu cầu chị Lâm Nguyễn Tuyết T trả số tiền hụi 12.965.000 đồng mà hai bên đã đối chiếu vào ngày 28/02/2018. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp Hợp đồng góp hụi theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị H yêu cầu chị T trả số tiền hụi là 12.965.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy chị Lan có tham gia chơi trong dây hụi 20/9/2016 âm lịch do chị T làm chủ, loại hụi 2.000.000 đồng/tháng, chị H tham gia 01 phần và chị H đã đóng được 09 kỳ hụi sống thì hụi bị bể vào tháng 6/2017 âm lịch. Sau khi hụi bể giữa hai bên đã không đối chiếu số tiền hụi đã đóng, cho đến ngày 28/02/2018 khi chị H khởi kiện tại Tòa án thì giữa hai bên chị H và chị T đã đối chiếu số tiền hụi và thống nhất sô tiền hụi chị H đã đóng cho chị T là 12.965.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị H đòi chị T trả số tiền 12.965.000 đồng là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật bởi lẽ chị T thừa nhận hiện nay chị còn nợ chị H số tiền 12.965.000 đồng và chị T đồng ý trả cho chị H số tiền trên. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Lan đòi chị T trả số tiền nợ hụi là 12.965.000 đồng.

[3] Xét yêu cầu tính lãi: Chị H không yêu cầu chị T trả lãi đối với số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Xét về thời gian trả: Chị H yêu cầu chị T trả số tiền 12.965.000 đồng làm 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa, anh A là đại diện ủy quyền của bị đơn chị T xin được khi nào thu hồi được các khoản nợ mà người khác nợ chị T xong sẽ trả cho chị H số tiền trên nhưng chị H không đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy, chị T tổ chức chơi hụi nhưng chị T đã để hụi bể đã gây thiệt thòi đến quyền lợi của hụi viên tham gia trong dây hụi, đồng thời chị T không xác định được cụ thể thời gian trả nợ và nghĩa vụ trả nợ của người khác đối với chị T không liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của chị T đối với chị H. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị H đòi chị T trả số tiền trên ngay khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H và buộc chị T có nghĩa vụ trả cho chị H số tiền 12.965.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí: Bị đơn chị Tuyết T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Ngọc H đối với chị Lâm Nguyễn Tuyết T.

Buộc chị Lâm Nguyễn Tuyết T có nghĩa vụ trả cho chị Võ Thị Ngọc H số tiền nợ hụi là 12.965.000 đồng (mười hai triệu chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng), thực hiện trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày chị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị T chậm trả số tiền nêu trên thì chị T phải trả tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

2/ Án phí: Chị Lâm Nguyễn Tuyết T phải chịu 648.250 đồng (sáu trăm bốn mươi tám nghìn hai trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại chị Võ Thị Ngọc H số tiền 338.500 đồng (ba trăm ba mươi tám nghìn năm trăm đồng) tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số 39122 ngày 19/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

3/ Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2018/DS-ST ngày 23/05/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:119/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về