Bản án 119/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 119/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý 197/2018/TLST-HNGĐ ngày 11/6/2018 về việc "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 334/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa 205/2018/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Thanh H, sinh 1994 (có mặt).

Địa chỉ: số 213, tổ 10, ấp P, xã T, huyện T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Bùi Thị Diễm Q, sinh 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp P, xã T, huyện T, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn anh Trần Thanh H trình bày: Anh và chị Bùi Thị Diễm Q kết hôn vào ngày 16/9/2016, đăng ký kết hôn tại UBND xã Tây Phú. Vợ chồng chung sống đến tháng 12/2016 thì phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân cho đến nay, nguyên nhân do chị Q mang thai trước khi cưới nhưng không phải của anh. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn và kéo dài, anh xin được ly hôn.

Về quan hệ con chung, tài sản và nợ chung không có, anh không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn chị Bùi Thị Diễm Q: Kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng chị Q đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của anh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

 [1] Bị đơn chị Bùi Thị Diễm Q đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử thấy, có căn cứ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, xét xử vắng mặt chị Q.

 [2] Do mai mối và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới, năm 2016 anh Trần Thanh H với chị Bùi Thị Diễm Q tự nguyện chung sống với nhau được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 53 ngày 18/10/2016. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [3] Xét yêu cầu của anh Trần Thanh H, thấy: Vợ chồng anh H và chị Q chung sống với nhau; tuy nhiên, chỉ trong thời gian ngắn thì mâu thuẫn trầm trọng và đã sống ly thân từ tháng 12/2016 cho đến nay; kể từ khi sống ly thân đến nay anh H với chị Q không gặp nhau, không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau. Ngoài lời trình bày của anh H, điều này còn được thể hiện, kể từ khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng chị Q đã vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với anh H để xây dựng hạnh phúc gia đình.

Căn cứ Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa anh Trần Thanh H với chị Bùi Thị Diễm Q không còn, tình trạng hôn nhân đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Trần Thanh H.

 [4] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, anh Trần Thanh H là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu của anh Trần Thanh H.

Về quan hệ hôn nhân: cho anh Trần Thanh H ly hôn với chị Bùi Thị Diễm  Q.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: anh Trần Thanh H chịu 300.000 đồng, được trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001207 ngày 11/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Anh Trần Thanh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tuyên án; chị Bùi Thị Diễm Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh An Giang, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2018/HNGĐ-ST ngày 18/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:119/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về