Bản án 119/2019/HS-ST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 119/2019/HS-ST NGÀY 02/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Th, sinh năm 1978 tại tỉnh Hà Tĩnh; Thường trú: Thôn 7, xã L, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 01/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1939 và bà Phạm Thị L, đã chết; có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1963, nhỏ nhất sinh năm 1973; có vợ tên Phạm Thị S, sinh năm 1991 và 02 người con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Ngày 27/10/2004 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày 27/10/2004; ngày 12/5/2005 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt của hai bản án số 148 ngày 27/10/2004 buộc Th phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm 10 tháng 14 ngày, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/6/2007; ngày 28/10/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 20 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 23/7/2010, án phí dân sự, án phí hình sự và bồi thường dân sự chưa nộp; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 12/6/2018 đến ngày 21/6/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Phạm Thị S, sinh năm 1991; có mặt.

2. Đặng Cao D, sinh năm 1970; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Th là người bị bệnh bướu ác phế quản và phổi, Thắng thường xuyên sử dụng là ma túy loại heroin để giảm cơn đau nhức từ tháng 02/2018, Nguyễn Văn Th có 03 tiền án chưa được xóa án tích.

Vào ngày 12/6/2018 Nguyễn Văn Th đến khu vực cầu vượt Linh Xuân gặp và mua của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch một liều ma túy giá 200.000 đồng. Mua xong Th đem về phòng trọ số 3 nhà trọ không số thuộc Tổ 27, khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cất giấu để sử dụng. Khoảng 18 giờ ngày 12/6/2018, Công an phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương phát hiện phòng trọ số 3 của Nguyễn Văn Th có dấu hiệu nghi vấn về việc sử dụng trái phép chất ma túy nên yêu cầu Th có ma túy thì giao nộp. Nguyễn Văn Th tự nguyện lấy từ thau nhựa để trong nhà vệ sinh ra 01 gói nylon hàn kín bên trong có chất bột màu trắng và khai là heroin Th cất giữ để sử dụng. Công an phường An Bình lập biên bản niêm phong tang vật và lập biên bản phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ: 01 gói ny lon miệng hàn kín, bên trong có chất bột màu trắng.

Căn cứ kết luận giám định số 350/MT-PC54 ngày 15/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi đến giám định là ma túy có trọng lượng là 0,2667 gam, loại heroin.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Th tại khu vực cầu vượt Linh Xuân thuộc phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan điều tra đang làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 105/CT–VKS ngày 21 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 0,2021 gam ma túy Heroin mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Nguyễn Văn Th, bị bệnh bướu ác phế quản và phổi, Th thường xuyên sử dụng là ma túy loại heroin để giảm cơn đau. Vào ngày 12/6/2018, Th đến khu vực cầu vượt Linh Xuân thuộc phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua một gói nylon hàn kín chứa heroin với giá 200.000 đồng, Khoảng 18 giờ ngày 12/6/2018, Công an phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kiểm tra phòng số 3 của Th phát hiện 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa heroin, trọng lượng 0,2667 gam.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

…..

m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

n) Tái phạm nguy hiểm; .......”

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Th tàng trữ 01 gói ma túy heroin, trọng lượng 0,2667 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo có 03 tiền án, tiếp tục phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 105/CT–VKS ngày 21 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử nhiều lần và chưa được xóa án tích.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,2021 gam, loại heroin là vật cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa chữa bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được khấu trừ thời gian giữ từ ngày 12/6/2018 đến ngày 21/6/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bỳ có niêm phong chứa heroin, trọng lượng sau giám định là 0,2021 gam.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/3/2019, bút lục 93).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Th phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2019/HS-ST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:119/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về