Bản án 120/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 120/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Đường B2, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 126/2018/TLST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Thị L, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 03/8/1980 tại Huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 6/12.

Nơi cư trú và chỗ ở: Nơi cư trú: Tổ 13, phường D, thành phố L, tỉnh L.

Con ông Bùi Văn V (Đã chết); Mẹ đẻ: Lương Thị T (sinh năm 1943). Trú tại: Xã Mai Sơn, huyện Hắt Lót, tỉnh Sơn La.

- Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Nguyễn Viết H , sinh năm 1963, trú tại: Thôn 7, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ ngày 17/9/2018, Tổ công tác Công an tỉnh Lào Cai đang làm nhiệm vụ tại khu vực Thôn 7, xã Đồng Tuyển, thành phố phố Lào Cai phát hiện Bùi Thị L có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ Công tác yêu cầu kiểm tra Bùi Thị L, Bùi Thị L khai đang tàng trữ ma túy trên người và trong phòng trên giường ngủ. Bùi Thị L đã tự giác giao nộp 01 gói ni lon, bên trong có 02 gói nhỏ giấy bạc, bên trong đều chứa chất bột khô, mầu trắng và 03 gói ni lon, bên trong mỗi gói đều chứa các cục chất bột khô mầu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng có sự chứng kiến của ông Nguyễn Viết Hằng, sinh năm 1963, trú tại: Thôn 7, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai. Ngoài ra còn thu giữ của Bùi Thị L 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Bùi Thị L.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai tiến hành khám xét chỗ ở của Bùi Thị L tại Thôn 7, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai thu giữ: 01 túi ni lon, bên trong chứa các hạt tinh thể mầu trắng để trong 01 bìa cát tông bên ngoài quấn băng dính mầu đen ở trên đầu gường ngủ trong phòng . Thu giữ 03 gói giấy bạc, bên trong chứa các cục chất bột khô mầu trắng ở cuối giường ngủ trong phòng.Tổ công tác đã lập biên bản khám xét và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra không thu giữ gì khác .

Kết luận giám định: Số 190 ngày 22/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 187/GĐMT ngày 19/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Mẫu M1: 0,10 gam chất bột khô, mầu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine. Mẫu M2: 4,74 gam chất bột khô, mầu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine. Mẫu M3: 0,23 gam các hạt tinh thể, mầu trắng là chất ma túy Methamphetamine. Mẫu M4: 0,14 gam chất bột khô, mầu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Heroine và Methamphetamine thuộc danh mục các chất ma túy

Cáo trạng số 114/KSĐT ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Bùi Thị L đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị L đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm 03 (ba) tháng đến 05 (năm) năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự xử lý theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Thị L: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Do nghiện ma túy nên khoảng 15/9/2018, Bùi Thị L đã đi mua ma túy đem về nhà chia nhỏ để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 11 giờ ngày 17/9/2018, khi Bùi Thị L đang đứng ở trước cửa phòng trọ thì bị kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật, và qua khám xét chỗ ở của Bùi Thị L tại Thôn 7, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai thu giữ: gồm 4,98 gam ma túy loại Heroine và 0,23 gam Methamphetamine. Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trái phép chất ma túy” Tội phạm được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục bị cáo trở thành con người sống có ích cho xã hội đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Nhân thân bị cáo đã có 03 tiền án. Năm 2005, Bùi Thị L bị Tòa án nhân dân thị xã Lào Cai xử phạt 03 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, năm 2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, năm 2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xử phạt 07 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù đã xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu cần xem xét khi lượng hình.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy đinh “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. nhiên bị cáo không có nghề nghiệp và tìa sản gì nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 0,18 gam Methamphetamine và 4,66 gam Heroine còn lại sau trích mẫu giám định cùng toàn bộ niêm phong cũ được tái niêm phong. Xét thấy đây thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp. 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Bùi Thị L cần trả lại cho bị cáo.

Đối với người nữ giới đã bán ma túy tên Trần Thị Thu Hà, sinh năm 1973, Hộ khẩu thường trú: Thôn Công trường 5/2, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai là người đã bán 4,98 gam ma túy loại Heroine và 0,23 gam Methamphetamine cho bị cáo ngày 15/9/2018.

Ngoài ra, trước đó, Bùi Thị L còn khai mua ma túy của Trần Thị Thu Hà 03 lần khác nữa. Ngày 17/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai khám xét nơi ở của Trần Thị Minh Hà tại Thôn Công trường 5/2, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai. Quá trình khám xét thu giữ trên người và tại nơi ở của Trần Thị Thu Hà 10 gói ma túy Heroine và 03 cục ma túy Heroine. Ngày 24/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai khởi tố bị cáo và tạm giam đối với Trần Thị Thu Hà ở vụ án khác.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và đối chất giữa Trần Thị Thu Hà và Bùi Thị L. Do Trần Thị Thu Hà không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Bùi Thị L nên không đủ căn cứ để xử lý đối với Trần Thị Thu Hà, khi nào chứng minh làm rõ được sẽ xử lý sau khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Bùi Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị L 05 (năm) năm 06 ( sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam ngày 17/9/2018.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam Methamphetamine và 4,66 gam Heroine còn lại sau trích mẫu giám định cùng toàn bộ niêm phong cũ được tái niêm phong; Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Bùi Thị L. Theo biên bản giao nhận của Chi cục Thi hành án ngày 26/11/2018.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Thị L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:120/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về