Bản án 120/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 117/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Hồng P, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1994 tại tỉnh B. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện A, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960, đều trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện A, tỉnh B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 14/6/2019 đến nay. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Tuấn S.

2. Anh Nguyễn Văn D.

3. Chị Hoàng Thúy E.

Đều vắng mặt.

+ Người chứng kiến: Ông Hoàng Doãn G. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 10 phút ngày 14 tháng 6 năm 2019, Tổ công tác Công an thành phố LS làm nhiệm vụ tại khu vực đường I, phường K, thành phố LS bắt quả tang Lê Hồng P có hành vi tội phạm về ma túy; thu giữ 01 bọc bên ngoài gói bằng giấy vệ sinh màu trắng, bên trong bọc có 02 (hai) gói giấy báo chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Hồng khai nhận: làm thuê tại cửa khẩu T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn, bắt đầu sử dụng ma túy từ tháng 4/2019. Ngày 14/6/2019, Lê Hồng P đi từ B lên đến thành phố LS khoảng 16 giờ cùng ngày. Sau khi mua thuốc lá tại cửa hàng số 80 đường I, phường K, thành phố LS, bị cáo ra phía vỉa hè trước cửa hàng tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đó, bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết, khoảng 30-40 tuổi, người đàn ông đó hỏi bị cáo có mua ma túy không, bị cáo đồng ý và đưa cho người đàn ông đó 500.000đồng để đi mua ma túy. Khoảng 20 phút sau người đàn ông đó quay lại bỏ 01 bọc (bên trong có 02 gói) ma túy vào túi quần bên trái của bị cáo rồi bỏ đi, ngay sau đó bị cáo bị Công an phát hiện và bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 234/KL-PC09 ngày 16/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Chất bột màu trắng có trong 02 (hai) gói giấy thu giữ của bị cáo gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,258 gam (đã trừ bì).

Tại Cáo trạng số: 120/CT-VKSTP ngày 15/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lê Hồng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi của bị cáo bị truy tố như trong Cáo trạng là đúng đúng người, đúng tội, không oan.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Hồng P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Hồng từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/6/2019. Áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền 5.000.000đồng đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì chứa số ma túy còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo: 01 ví da màu nâu, bên ngoài in chữ LPLVPK; 01 túi xách bằng da màu nâu, có dây đeo bằng vải màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng, số IMEI 1: 862210046306892, số IMEI: 2: 862210046306884, lắp kèm sim số 0984983045 và số tiền 21.532.000đồng thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Lê Hồng P tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ căn cứ xác định: Ngày 14/6/2019, tại khu vực số 80, đường I, phường K, thành phố LS, Lê Hồng P có hành vi Tàng trữ trái phép 0,258 gam chất ma túy để sử dụng.

[2] Căn cứ vào Kết luận giám định số 234/KL-PC09 ngày 16/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lê Hồng P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng vì nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn thực hiện, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt giữ, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bố bị cáo là ông Lê Văn C được tặng huân chương của Nhà nước nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh ngày 23/6/2019, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng. Tuy nhiên, khi bắt quả tang đã thu giữ trên người bị cáo số tiền 21.532.000đồng. Bị cáo khai số tiền trên là của bị cáo, do bị cáo đi làm thuê mà có. Vì vậy, xác định bị cáo có tài sản riêng, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với 01 ví da màu nâu, bên ngoài in chữ LPLVPK; 01 túi xách bằng da màu nâu, kích thước 30cm x 30cm, có dây đeo bằng vải màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng, số IMEI 1: 862210046306892, số IMEI: 2 862210046306884, lắp kèm sim số 0984983045 và số tiền 21.532.000đồng không liên quan đến hành vi phạm tội và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Hồng là giấy tờ cá nhân, cần trả lại cho bị cáo.

[10] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố LS, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố LS, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[13] Bị cáo bị kết tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bốBị cáo Lê Hồng P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1 Xử phạt bị cáo Lê Hồng P 01 (một) năm 01 (một) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 14/6/2019.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 5.000.000đồng (năm triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

3.2. Trả lại cho bị cáo Lê Hồng P: 01 (một) ví da màu nâu, bên ngoài in chữ LPLVPK; 01 (một) túi xách bằng da màu nâu, kích thước 30cm x 30cm, có dây đeo bằng vải màu đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 màu hồng, số IMEI 1: 862210046306892, số IMEI: 2 862210046306884, lắp kèm sim số 0984983045; 01 (một) Căn cước công dân số 038094005025 mang tên Lê Hồng và số tiền 21.532.000đồng.

(Các vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2019 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn).

Số tiền trên trong tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố LS theo Ủy nhiệm chi ngày 15/7/2019 của Công an thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí:

Bị cáo Lê Hồng P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:120/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về