Bản án 121/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 121/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 124/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Công H, sinh năm 1988, tại: Nghệ An; Hộ khẩu thường trú: Xóm T, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Công K và bà Nguyễn Thị L; Có vợ Huỳnh Thị Mai L (không đăng ký kết hôn) chưa có con; tiền sự: không; tiền án: Ngày 20/01/2015, Tòa án nhân dân huyên C, tỉnh Bình Dương xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 11/2015/HSST). Ngày 21/01/2015, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”,(Bản án số 02/2015/HSST); tạm giữ, tạm giam ngày: 19/3/2019; (Có mặt).

Bị hại: Bà Võ Thị H, sinh năm 1981; Trú tại: đường S, Phường M, quận Gò Vấp, TP. HCM; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Tô Văn A, sinh năm 1991; Trú tại: đường D, phường E, quận Thủ Đức, TP. HCM; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10h, ngày 19/03/2019, Đặng Công H đang chơi bida ở tiệm Rừng Cấm tại quận Thủ Đức thì Hoàng (chưa rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0908621187 gọi điện thoại rủ H đi lấy trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì H đồng ý. Hoàng nói H chạy xe qua cầu Gò Dưa đón Hoàng, H sử dụng xe máy Exciter màu đỏ đến cầu Gò Dưa gặp Hoàng và đưa cho Hoàng túi bao da màu đen đựng một cây đoản, 02 đầu đoản, một đoản bẻ khóa từ. Xuất phát đi Hoàng chở H bằng xe máy Exciter đi từ quận Thủ Đức sang quận Gò Vấp. Khi cả hai đi đến trước nhà 385/26 Lê Văn Thọ, Phường 9, quận Gò Vấp thì nhìn thấy có nhiều xe dựng trước nhà, không người trông coi. Hoàng chở H quay xe lại, dừng xe cách căn nhà khoảng 7m. H đứng ngoài có nhiệm vụ cảnh giới còn Hoàng đi bộ vào trong dùng đoản bẻ khóa xe Air Blade biển số 59K1-130.32 của chị Võ Thị H. Trong lúc Hoàng đang bẻ khóa thì chị H phát hiện tri hô. Chị H cùng người dân đuổi theo Hoàng, Hoàng bỏ chạy tẩu thoát, còn H bị quần chúng nhân dân bắt giữ lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Công H đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc xe máy Honda Air Blade biển số 59K1-130.32, số khung: 2703BY031414, số máy: JF27E0737129. Tại bản kết luận định giá tài sản số 78/KL ngày 22/03/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND quận Gò Vấp kết luận: Ước tính giá trị xe máy Air Blade, số khung: 2703BY031414, số máy: JF27E0737129 do Công ty Honda Việt Nam sản xuất đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 19/03/2019 là 18.833.000 đồng. Qua xác minh chiếc xe trên do chị Võ Thị H đứng tên chủ sở hữu, cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Võ Thị H.

- 01 điện thoại Nokia màu đen, số sim: 0982022064;

- 01 cờ lê bằng kim loại dài khoảng 10cm, 01 đoản dài 3 cm, 01 đoản dài 5 cm và 01 USB (ghi lại hình ảnh Hào trộm cắp xe máy);

- 01 xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ không biển số, số khung: MH3UG0750KK011648, số máy: G3E6E-0477661. Qua xác minh chiếc xe trên do anh Tô Văn A mua tại cửa hàng xe máy Hoàng Cầu, địa chỉ: 123/2A đường Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức nhưng chưa làm thủ tục đăng ký biển số. Đến ngày 19/03/2019, Đặng Công H mượn xe đi công việc sau đó đi trộm cắp tài sản bị bắt quả tang, việc H mượn xe đi trộm cắp tài sản anh Tô Văn A không biết.

Tại bản cáo trạng số 124/CTr-VKS, ngày 01/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Đặng Công H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017;

- Xử phạt bị cáo Đặng Công H từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1,khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 01 cờ lê bằng kim loại dài khoảng 10cm, 01 đoản dài 3 cm, 01 đoản dài 5 cm.

- Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 USB.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia 1280.

- Trả lại cho anh Tô Văn A 01 xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ không biển số.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Đặng Công H đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Đặng Công H đã có hành vi cảnh giới cho đồng bọn lén lút lấy trộm tài sản, mặc dù bị cáo trước đó đã có 02 bản án về hành vi trộm cắp chưa được xóa án. Tuy nhiên, bản án thứ hai xét xử bị cáo chỉ sau bản án thứ nhất có 01 ngày nên không có tình tiết tái phạm. Do vậy, lần vi phạm này của bị cáo chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Đặng Công H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

[3] Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại bị cáo cùng đồng bọn đã lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Xét nhân thân bị cáo đã có 02 lần bị xử lý về hành vi “trộm cắp tài sản” chưa được xóa án, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật và lần phạm tội này là tái phạm là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, xét tính chất bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, tài sản chưa chiếm đoạt được, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại chị Võ Thị H vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện chị đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt hiện không thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe máy Honda Air Blade biển số 59K1-130.32, qua xác minh chiếc xe trên do chị Võ Thị H đứng tên chủ sở hữu, cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị Võ Thị H. Hội đồng xét xử nhận thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

Đối với 01 cờ lê bằng kim loại dài khoảng 10cm, 01 đoản dài 3 cm, 01 đoản dài 5 cm là dụng cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 USB bên trong chứa đoạn video H trộm xe gắn máy là chứng cứ vụ án, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ.

Đối với chiếc điện thoại di động Nokia 180 Imei 351546006700684 (nắp sau bị gãy) là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ không biển số, số khung: MH3UG0750KK011648, số máy: G3E6E-0477661. Qua xác minh chiếc xe trên do anh Tô Văn A mua tại cửa hàng xe máy Hoàng Cầu, địa chỉ: 123/2A đường Ngô Chí Quốc, Khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức nhưng chưa làm thủ tục đăng ký biển số. Đến ngày 19/03/2019, Đặng Công H mượn xe đi công việc sau đó đi trộm cắp tài sản bị bắt quả tang, việc H mượn xe đi trộm cắp tài sản anh Tô Văn A không biết. Hội đồng xét xử xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án nên quyết định trả lại cho anh Tô Văn A và anh A có trách nhiệm liên hệ Cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký quyền sỡ hữu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Công H phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Đặng Công H 01 (một) năm tù. Thời han tu đươc tinh kê tư ngày tạm giữ, tạm giam 19/3/2019.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017; khoản 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy 01 cờ lê bằng kim loại dài khoảng 10cm, 01 đoản dài 3 cm, 01 đoản dài 5 cm.

Tịch thu bổ sung chứng cứ hồ sơ 01 USB bên trong chứa đoạn video H trộm xe gắn máy.

Tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc điện thoại di động Nokia 180 có số Imei 351546006700684 (nắp sau bị gãy).

Trả lại anh Tô Văn A xe mô tô Yamaha Exciter màu đỏ không biển số, số khung: MH3UG0750KK011648, số máy: G3E6E-0477661. Anh Tô Văn A có trách nhiệm liên hệ Cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký quyền sỡ hữu.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 139/PNK, ngày 26/6/2019 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:121/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về