Bản án 12/2018/HS-ST ngày 21/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 21/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 3 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2018/HSST ngày 15 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D, sinh năm 1995; Tại: xã H, huyện H, Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị N; có vợ là Mai Thị O và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: ngày 20/11/2016 bị Công an huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi “Đánh nhau”. Tạm giữ từ ngày 09/8/2017 đến ngày 18/8/2017 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Ngày 26/02/2018 bị bắt tạm giữ đến ngày 07/3/2018 chuyển tạm giam về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” cho đến nay; Có mặt.

Người bị hại:

- Anh Đoàn Hữu Đ, sinh năm 1976

Địa chỉ: Thôn 4, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).

- Anh Nguyễn Ba V, sinh năm 1996 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 7 và tháng 8 năm 2017, Nguyễn Văn D đã thực hiện hai vụ “Cố ý gây thương tích”. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Chiều ngày 22/7/2017, do có mâu thuẫn giữa anh Đinh Công T với anh Nguyễn Hồng S và anh Đoàn Hữu Đ (là hai bảo vệ của công ty giầy da Venus thuộc xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa) về việc anh T xin vào bên trong công ty để đưa chìa khóa cho vợ là công nhân, nhưng anh Đ và anh S không cho vào, hai bên có lời qua tiếng lại, trong lúc anh T đang cãi nhau với anh S thì Nguyễn Văn D đi cùng anh T liền quát anh S “…mẹ mày dám láo với anh tao à”, D tiến lại phía anh S định đánh anh S thì anh S bỏ chạy, D đuổi theo anh S nhưng không kịp nên quay ra cổng thì thấy anh Đ đang ấn nút điều khiển để đóng cổng lại, D lại vị trí anh Đ đang đứng dùng chân phải đạp trúng vào hông bên phải anh Đ, anh Đ liền lấy một chiếc ghế sắt giơ lên để phòng vệ thì bị D giật lấy chiếc ghế vụt lại anh Đ từ trái sang phải, từ phải sang trái và từ trên xuống dưới, anh Đ giơ tay ra đỡ và lùi về phía sau. D tiếp tục dùng ghế sắt vụt vào người anh Đ và trúng vào vùng mắt bên phải của anh Đ. Thấy D và anh Đ đánh nhau thì Phạm Văn T (bạn của D) lao đến định đánh anh Đ thì D nói với T “mày để anh”. Nhưng vì thấy anh Đ bị chảy máu ở mắt phải nên D không đánh nữa mà vứt chiếc ghế vừa sử dụng để đánh anh Đ xuống đất. T đứng cạnh đó thấy vậy liền nhặt ghế lên và ném về phía anh Đ đang đứng, anh Đ giơ tay ra đỡ thì bị trúng vào phần tay và ngực. Sau khi đánh anh Đ xong D, T cùng một số người đi về. Anh Đ sau khi bị đánh đã được đưa vào bệnh viện đa khoa huyện Hà Trung để điều trị.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh Đoàn Hữu Đ xác định anh Đ có các vết thương sau:

- 01 (một) vết thương rách da, chảy máu ở cung lông mày bên phải, kích thước (3x3)cm, vết thương nham nhở, mắt phải bầm tím;

- 01 (một) vết thương rách da tại mép bàn tay phải, kích thước (1 x 0,5)cm;

- 01 (một) vết trầy xước, rướm máu tại cổ tay phải, kích thước (5 x 3) cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 336/2017/TTPY ngày 21/8/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Chấn thương vùng mắt phải gây chấn thương đụng dập nhãn cầu; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng thị lực mắt phải = 6/10: 05%.

- Sẹo vết thương phần mềm vùng giữa cung lông mày bên phải; số lượng sẹo ít, kích thước nhỏ: 03%.

- Các chấn thương, vết thương phần mềm khác đã được điều trị; hiện tại không để lại sẹo vết thương phần mềm, không có di chứng chấn thương: 0%.

Kết luận: Hiện tại tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08%.

Trong vụ án này tham gia đánh anh Đ ngoài D còn có Nguyễn Văn T. Tuy nhiên, việc T đánh anh Đ không được tiếp nhận ý chí từ D, vết thương do T đánh anh Đ là 0% nên không có căn cứ để khởi tố T đồng phạm với D về tội cố ý gây thương tích. Công an huyện Hà Trung ra quyết định xử lý hành chính đối với Nguyễn Văn T.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 11h00’ ngày 09/8/2017 Nguyễn Văn D đi xe máy từ nhà ở xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa xuống phòng trọ ở đầu đường 508 thuộc xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Khi đi qua  ngã ba thôn Đ, xã H, D gặp Nguyễn Ba V, cho rằng V sẽ chặn xe của mình lại nên D tăng ga bỏ chạy về phòng trọ thuê của ông Nguyễn Văn P ở đầu đường 508 thuộc tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, D đi vào phòng lấy một đoạn tuýp sắt, dài 80cm hai đầu cắt vắt nhọn đến tìm V để đánh. Khi đến gần ngã ba thôn Đ, xã H, D phát hiện V đang ngồi bên vệ đường, D dừng xe lại cầm tuýp sắt lao về phía V để đánh thì bị V nhặt đá ném lại nhưng không trúng, D liền lao tới cầm tuýp sắt vụt một cái vào trán V, V bỏ chạy thì D đuổi theo và dùng tuýp sắt ném trúng vào lưng khiến V ngã về phía trước. Lúc này có một nam thanh niên tên là T liền chạy tới dùng tuýp sắt đập vào lưng V, V vùng dậy bỏ chạy vào nhà ông Đ. Sau đó V được đưa đi điều trị tai Bệnh viện đa khoa huyện Hà Trung. Đến 19 giờ ngày 09/8/2017 D ra Công an huyện Hà Trung đầu thú và khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể xác định anh Nguyễn Ba V có 3 vết thương sau:

- Tại khu vực trán trái có 1 vết thương rách da, chảy máu, kích thước 1x4 cm, bờ mép vết thương sắc gọn;

- Tại khuỷu tay trái có 01 vết thương xước, rớm máu;

- Tại lòng bàn tay trái có 01 vết trầy trớt da kích thước 1x2 cm, vết thương nham nhở.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 358/2017/TTPY ngày 08/9/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho anh Nguyễn Ba V là 07% (bảy).

Ngày 26/10/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung tổn hại phần trăm cơ thể của từng vết thương. Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 491/2017/TTPY ngày 07/11/2017 kết luận: Tại khu vực trán trái có 01 vết thương rách da, chảy máu, kích thước 1x4cm, bờ mép vết thương sắc gọn có tỷ lệ tổn thương là 05%; Tại khủyu tay trái có 01 vết trầy xước, rướm máu có tỷ lệ tổn thương là 01%; Tại lòng bàn tay trái có 01 vết trầy xước, tróc da, kích thước 1x2cm, bề mặt vết thương nham nhở có tỷ lệ tổn thương là 01%. Tổng cộng là 07%.

Trong vụ án này, tham gia đánh V còn có một nam thanh niên có tên là T và một số đối tượng khác có cầm hung khí đi theo D nhưng quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa có căn cứ để khởi tố điều tra.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 12/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Nguyễn Văn D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: điểm a, i khoản 1 Điều 104; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt Nguyễn Văn D từ 12 đến 15 tháng tù. Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 tuýp sắt, 01 dao tự chế, 01 mũ phớt, trả lại cho anh Đ 01 ghế sắt. Về dân sự buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho anh Đ và anh V.

Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm phát luật, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản khám thương, bệnh án, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu giữ trong quá trình điều tra là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào ngày 22/7/2017 tại Công ty giầy da Venus thuộc xã H, huyện H, Nguyễn Văn D đã dùng một chiếc ghế bằng kim loại đánh vào mắt phải anh Đoàn Hữu Đ làm anh Đ bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 08%. Vào ngày 09/8/2017, tại thôn Đ, xã H, huyện H, Nguyễn Văn D tiếp tục dùng tuýp sắt đánh vào trán trái anh Nguyễn Ba V làm anh V bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 07%.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi của bị cáo: Hành vi gây thương tích cho anh Đ, anh V mà bị cáo thực hiện là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Gây nên tình hình mất trật tự trị an tại địa phương; gây đau đớn về thể xác, thiệt hại tới tinh thần của người bị hại. Bị cáo nhận thức rõ điều này nhưng vẫn cố tình thực hiện, đã dùng hung khí nguy hiểm và thể hiện tính côn đồ, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội phạm đã gây ra. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm khắc để giáo dục D và nhằm cảnh tỉnh răn đe phòng ngừa những kẻ có ý đồ phạm tội như bị cáo. Nên cần xử cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là cần thiết.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo phạm tội 02 lần nên bị cáo phải chịu tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Nên cần áp dụng điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để  bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với anh Đoàn Hữu Đ đề nghị bồi thường các khoản chi phí điều trị, tiền thuốc, tiền mất thu nhập, công người chăm sóc, tiền thuê xe, tiền bù đắp tổn thất tinh thần (từ ngày 22/7/2017 đến ngày 28/7/2017 tại Bệnh viện Hà Trung) với số tiền là 19.884.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng: Các khoản chi phí điều trị, tiền mua thuốc ngoài có hóa đơn, tiền mất thu nhập, công người chăm sóc, tiền thuê xe là phù hợp, tiền bồi thường tổn thất tinh thần anh đề nghị 5.000.000đ là tương ứng với 04 tháng lương cơ sở là phù hợp với tổn hại sức khỏe của anh.

- Đối với anh Nguyễn Ba V đề nghị bồi thường các khoản chi phí điều trị, tiền thuốc, tiền mất thu nhập, công người chăm sóc, tiền thuê xe, tiền bù đắp tổn thất tinh thần (từ ngày 09/8/2017 đến ngày 16/8/2017 tại Bệnh viện Hà Trung) với số tiền là 11.891.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng: Các khoản chi phí điều trị, tiền mua thuốc ngoài, tiền mất thu nhập, công người chăm sóc, tiền thuê xe là phù hợp, tiền bồi thường tổn thất tinh thần anh đề nghị 3.000.000đ là tương ứng với 03 tháng lương cơ sở là phù hợp với tổn hại sức khỏe của anh.

Tại phiên tòa bị cáo D xét thấy yêu cầu bồi thường của anh Đ, anh V là hoàn toàn phù hợp với thương tích nên chấp nhận bồi thường toàn bộ số tiền bồi thường mà các anh đưa ra. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận và buộc D phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh Đ và anh V như đã đề nghị.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc ghế bằng kim loại sơn trắng mà D dùng đánh anh Đ là của anh Đ nay anh có yêu cầu lấy lại nên cần chấp nhận và trả lại chiếc ghế này cho anh Đ.

- Đối 01 tuýp sắt dài 58cm, loại phi 21 bằng hai đầu; 01 tuýp sắt hơi cong, dài 81,5cm, loại phi 27, hai đầu vát nhọn; 01 con dao tông được hàn cán bằng tuýp sắt phi 27, dài 1m, lưỡi dao dài 34cm, han ghỉ và 01 mũ lưỡi trai màu đen. Đây là vật chứng mà D giao nộp, hiện nay đã cũ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm a, i khoản 1 Điều 104; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 26 tháng 02 năm 2018 và được trừ thời gian tạm giữ là 09 (chín) ngày.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 590; Điều 357 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 42 của Bộ luật hình sự 1999.

- Buộc Nguyễn Văn D phải bồi thường cho anh Đoàn Hữu Đ tổng số tiền: 19.884.000đ (Mười chín triệu tám trăm tám tư nghìn đồng). Trong đó gồm: Tiền viện phí 331.000đ; tiền thuê xe (đi và về) 400.000đ; tiền mất thu nhập khi điều trị ở bệnh viện và về nhà (01 tháng) 7.153.000đ; công người chăm sóc (20 ngày) 4.000.000đ, mua thuốc ngoài 3.000.000đ, tiền bù đắp về tổn thất tinh thần 5.000.000đ.

- Buộc Nguyễn Văn D phải bồi thường cho anh Nguyễn Ba V tổng số tiền: 11.891.000đ (Mười một triệu tám trăm chín mốt nghìn đồng). Trong đó gồm: Tiền viện phí 1.021.000đ; tiền phí bệnh viện 170.000đ; tiền thuê xe (đi và về) 400.000đ; tiền mất thu nhập khi điều trị ở bệnh viện và về nhà (20 ngày) 5.000.000đ; công người chăm sóc (8 ngày) 2.000.000đ, mua thuốc ngoài 300.000đ, tiền bù đắp về tổn thất tinh thần 3.000.000đ.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành khoản tiền bồi thường hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng phải trả lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41, khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho anh Đoàn Hữu Đ 01 chiếc ghế bằng kim loại sơn màu trắng, chiều cao thành ghế sau 90cm, chiều cao thành ghế trước 49cm, chiều rộng 34cm, chiều ngang 31cm, mặt ghế hàn bằng lưới sắt. Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 07/02/2018.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 tuýp sắt dài 58cm, loại phi 21 bằng hai đầu; 01 tuýp sắt hơi cong, dài 81,5cm, loại phi 27, hai đầu vát nhọn; 01 con dao tông được hàn cán bằng tuýp sắt phi 27, dài 1m, lưỡi dao bằng kim loại dài 34cm, han ghỉ và 01 mũ lưỡi trai màu đen. Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 06/02/2018.

4. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1, 3 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.588.750đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày; đối với bị cáo  kể từ ngày tuyên án, đối với anh Đ, anh V kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 21/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về