Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử công khai vụ án thụ lý số 50/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019 về “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thu Đ, sinh năm: 1985.

Thường trú: Khu 5, ấp 1, xã X, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ liên lạc: Ấp B, xã Lộc An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quốc B, sinh năm: 1965.

Thường trú: Khu 5, ấp 1, xã X, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: Ấp 3, xã S, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Đ và anh B xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 27/11/2018 và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Thu Đ trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Quốc B tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận ngày 27/02/2013. Sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn về cách sống và kinh tế, anh B không lo cho con cái nên anh chị thường xuyên cãi vã nhau. Ngoài ra anh B còn hay đánh đập và đe dọa giết chị nên chị cảm thấy không sống chung được nữa, chị và anh B đã sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay, ai làm việc nấy, không còn quan tâm chăm sóc cho nhau nữa. Nay chị nhận thấy giữa chị và anh B tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh Phạm Quốc B.

+ Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Quỳnh A, sinh ngày 09/02/2011 và Phạm Quỳnh T, sinh ngày 12/02/2014.

Hiện hai cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T đang sống cùng chị, ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T. Trong bản tự khai ngày 15/3/2019 chị có yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi mỗi con là 1.500.000 đồng/ tháng, nhưng anh B có ý kiến không đồng ý cấp dưỡng nuôi con nên chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm công nhân, thu nhập bình quân một tháng khoảng 7.500.000 đồng, chị đảm bảo đủ điều kiện nuôi con.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

- Tại bản tự khai ngày 18/3/2019 bị đơn anh Phạm Quốc B trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đ chung sống năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận vào ngày 27/02/2013. Sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường đến năm 2017 anh chị thường xuyên cải nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017, không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị Đ xin ly hôn anh đồng ý ly hôn.

+ Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Quỳnh A, sinh ngày 09/02/2011 và Phạm Quỳnh T, sinh ngày 12/02/2014.

Anh đồng ý để chị Đ nuôi 02 con chung, anh không cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

Do bận công việc nên anh B có đơn đề nghị vắng mặt tại các buổi làm việc, hòa giải và xét xử tại Tòa án.

Các tài liệu, chứng cứ trong vụ án: Đơn khởi kiện tranh chấp ly hôn; Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu; Giấy chứng nhận kết hôn; Giấy khai sinh con; Đơn xác nhận nơi cư trú; Đơn xin không tiến hành hòa giải; Bản tự khai của chị Đ; Đơn đề nghị xác minh thu thập chứng cứ của chị Đ; Bản tự khai cháu Phạm Quỳnh A; Bản tự khai của anh B; Đơn đề nghị xin vắng mặt của anh B; Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Biên bản không tiến hành hòa giải được; Đơn đề nghị xin vắng mặt của chị Đ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành: Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn như cung cấp tài liệu, chứng cứ và tham gia phiên tòa được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Đ và anh B là quan hệ hôn nhân hợp pháp, vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng, đã sống ly thân từ năm 2017, không hàn gắn đoàn tụ được nên yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận. Về con chung: có 02 con chung là cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 09/02/2011 và Phạm Quỳnh T, sinh ngày 12/02/2014, hiện cháu Quỳnh A và Quỳnh T đang sống cùng chị Đ, anh B đồng ý giao 02 con chung cho chị Đ nuôi dưỡng nên đề nghị giao cháu Quỳnh A và Quỳnh T cho chị Đ nuôi dưỡng, anh B không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho chị Huỳnh Thị Thu Đ và anh Phạm Quốc B nhưng chị Đ và anh B có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt; Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Đ và anh B.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ và anh B tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Đ, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 7 ngày 27/02/2013 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên chị Đ nộp đơn xin ly hôn. Xét yêu cầu ly hôn của chị Đ có cơ sở chấp nhận bởi lẽ chị Đ và anh B đều thừa nhận vợ chồng mâu thuẫn, đã sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, anh B cũng có ý kiến đồng ý ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đ, xử cho chị Đ được ly hôn anh B.

Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Quỳnh A, sinh ngày 09/02/2011 và Phạm Quỳnh T, sinh ngày 12/02/2014.

Ly hôn chị Đ yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T, không yêu cầu anh Bửu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy hiện cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T đang sống cùng chị Đ và được chị Đ chăm sóc tốt, cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T là bé gái cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, cháu Quỳnh A cũng có ý kiến muốn tiếp tục sống cùng chị Đ, hiện tại chị Đ có việc làm và thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con. Đồng thời, anh B cũng có ý kiến đồng ý giao cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T cho chị Đ nuôi dưỡng và anh B không cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu về việc nuôi con chung của chị Đ, giao cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35, Điều 147, Điều 157, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thu Đ về việc “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” đối với anh Phạm Quốc B, xử cho chị Huỳnh Thị Thu Đ được ly hôn anh Phạm Quốc B.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Quỳnh A, sinh ngày 09/02/2011 và Phạm Quỳnh T, sinh ngày 12/02/2014. Xử giao cháu Quỳnh A và cháu Quỳnh T cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn chị Đ, anh B vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Anh B được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết các đương sự có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Thu Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001141 ngày 22/01/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành, chị Đ đã nộp đủ án phí.

Chị Huỳnh Thị Thu Đ và anh Phạm Quốc B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về