Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 15/3/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2165/2018/TLST-HNGĐ ngày 18/9/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 554/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/12/2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/01/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/02/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm Nh, sinh năm 1995.

HKTT: Xã Đ, huyện C, tỉnh A.

HIện tạm trú: khu phố B, phường T, TP. B, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Ông Phạm Trương Trung Ng, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Khu phố B, phường T, TP. B, tỉnh Đ.

(Bà Nh có mặt còn ông Ng vắng mặt không có lý do)

QUYẾT ĐỊNH

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa của bà Nguyễn Thị Cẩm Nh thì bà và ông Phạm Trương Trung Ng xây dựng gia đình với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, TP. B trên cơ sở cả hai tự nguyện.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu và có với nhau một người con chung nhưng khoảng từ đầu năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, ông Ng không quan tâm đến gia đình, vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột. Vì không muốn gia đình đổ vỡ, bà đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình cảm để vợ chồng tiếp tục cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trở lên trầm trọng. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà cùng cháu B đã chuyển ra ngoài thuê nhà trọ và sống ly thân với ông Ng khoảng 01 năm nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Ng để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Phạm Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/6/2016. Ly hôn bà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động. Tạm thời bà không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con chung.

Veà taøi saûn chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Veà nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Phạm Trương Trung Ng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng để đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông Ng vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Cẩm Nh; Về con chung: Giao cháu Phạm Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/6/2016 cho bà Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời không buộc ông Ng phải cấp dưỡng cho con chung; Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông Ng nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Nh là đúng, do vậy đề nghị tách phần tài sản chung và nợ chung của bà Nh và ông Ng để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu; Về án phí: Bà Nh phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Phạm Trương Trung Ng hiện cư trú tại địa bàn TP. Biên Hòa (theo biên bản xác minh tại Công an phường Thống Nhất ngày 10/10/2018 – BL số 25) nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Phạm Trương Trung Ng đến Tòa án để tham gia các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử nhưng ông Ng đều vắng mặt không lý do. Vì vậy, căn cứ theo qui định tại các Điều 207, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án xét xử vắng mặt ông Ng.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nh và ông Ng xây dựng gia đình với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, TP. B trên cơ sở cả hai tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án, Hội đồng xét xử đã tiến hành hòa giải, hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Nh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và cương quyết xin ly hôn với ông Ng để trả tự do cho nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nh và ông Ng đã xảy ra trong khoảng thời gian dài, hiện cả hai đã không còn chung sống với nhau (theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 10/10/2018 – BL số 24). Bản thân ông Ng cũng không có ý hòa giải, hàn gắn cuộc sống vợ chồng điều này thể hiện qua việc ông Ng đã không đến tòa trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nh và ông Ng là có thật và đã thật sự trầm trọng, có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải cũng không đạt kết quả.

Do vậy, căn cứ theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nh, giải quyết cho bà Nh được ly hôn ông Ng.

[4] Về con chung: Có 01 con chung tên là Phạm Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/6/2016. Ly hôn bà Nh xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B, tạm thời bà không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy kể từ khi bà Nh và ông Ng sống ly thân với nhau cho đến nay cháu B do bà Nh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng (theo biên bản xác minh ngày 10/10/2018 – BL số 24), hiện bà Nh có công việc, thu nhập ổn định, hơn nữa cháu B đang còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn. Căn cứ theo qui định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giao B cho bà Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Ng không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Ng được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông Ng nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Nh là đúng. Do vậy, căn cứ theo qui định của pháp luật và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát, tách phần tài sản chung và nợ chung giữa bà Nh, ông Ng để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu.

[6] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Nh phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Cẩm Nh.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Cẩm Nh được ly hôn với ông Phạm Trương Trung Ng.

Về con chung: Giao cháu Phạm Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/6/2016 cho bà Nh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Ng không phải cấp dưỡng con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông Ng được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Nh phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009184 ngày 04/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Bà Nh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Ng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về