Bản án 12/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2019/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Thị L, Tên gọi khác: không, sinh năm: 1970; Hộ khẩu thường trú: thôn w, xã Long Mai, huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Ngô Văn B (đã chết) và bà Trương Thị V, sinh năm: 1932; Bị cáo có chồng là ông Nguyễn D, sinh năm: 1967 (đã ly hôn) và 02 con; Tiền án:

+ Ngày 09 tháng 6 năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” cho hưởng án treo theo Bản án số: 19/2008/HSST ngày 09 tháng 6 năm 2008.

+ Ngày 29 tháng 11 năm 2010 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 12 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo Bản án số: 03/2010/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2010; Tổng hợp hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số: 19/2008/HSST ngày 09 tháng 6 năm 2008; bị cáo Ngô Thị Tuyết Lan phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 24 tháng tù (đã chấp hành xong).

+ Ngày 14 tháng 6 năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 35/2012/HSST ngày 14 tháng 6 năm 2012 (đã chấp hành xong).

+ Ngày 25 tháng 11 năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 01/2014/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2014 (chưa chấp hành án).

Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22 tháng 02 năm 2018 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo Lan: Luật sư Hoàng Minh Q; Văn phòng Luật sư Hoàng Minh – Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước (có mặt).

Người bị hại:

- Bà Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1984; Địa chỉ nơi cư trú: Số 204 Lê Duẩn, phường W, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bà Phạm Thị Thu T, sinh năm 1988; Địa chỉ nơi cư trú: Ấp 01b, phường W, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1981; Địa chỉ nơi cư trú: Tổ 23, phường W, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

- Bà Lê TT, sinh năm 1974; Địa chỉ nơi cư trú: Ấp 5, xã W, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bà Nguyễn H, sinh năm: 1992; Địa chỉ nơi cư trú: thôn Minh Xuân, xã W, huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1985; Địa chỉ nơi cư trú: Số 302 Hùng Vương, phường W, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

- Ông Nguyễn BT, sinh năm 1988; Địa chỉ nơi cư trú: Ấp 01b, phường W, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến tháng 02 năm 2018 Ngô Thị L nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 7 giờ 00 phút ngày 08 tháng 9 năm 2014, Ngô Thị L đến tiệm thuốc tây của bà Nguyễn Ngọc B tại phường W, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai để mua thuốc. Lúc này, tiệm thuốc không có người trông coi và trên bàn có 01 máy tính bảng hiệu Samsung T805 được bọc vỏ Usams Samsung Tab S10.5 SKY nên L này sinh ý định trộm chiếc máy tính bảng trên. L tiến lại gần, dùng tay lấy máy tính bảng, mang ra ngoài và đón taxi đi. Đến chợ Phù Đổng thuộc phường W, thành phố PleiKu, L xuống xe và cất giấu chiếc máy tính bảng vào bãi cỏ trong chợ. Khoảng 9 gờ cùng ngày, L bị bà B phát hiện báo Công an bắt giữ. Chiếc máy tính bảng không thu hồi được.

Lần 2: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 20 tháng 02 năm 2018, Ngô Thị L điều khiển xe mô tô biển số: 43H1- 08208 (xe của bà Huỳnh Thị H bị mất trộm ngày 23 tháng 7 năm 2014 tại xã W, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) đi từ Bình Dương đến thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Khi đi ngang qua trường mầm non “Bé yêu” thuộc xã W, thị xã Đồng Xoài do bà Phạm Thị TT làm chủ, thấy văn phòng của trường mở cửa, không có người trông coi nên L dừng xe và đi bộ vào bên trong. Phát hiện trên bàn có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, L nảy sinh ý định trộm chiếc điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. L dùng tay lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi xách đeo ở phía trước ngực rồi lên xe đi về thành phố Hồ Chí Minh để bán điện thoại. Trên đường đi L sử dụng điện thoại Samsung J7 (điện thoại của bà Lê Thị T bị mất trộm ngày 14 tháng 02 năm 2018 tại phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài) nhắn tin Zalo cho Nguyễn Văn P nhờ kiểm tra chiếc điện thoại đã lấy của bà T và biết được điện thoại Iphone 7 Plus bị khóa mật khẩu Icloud. Sau đó L bán điện thoại di động Iphone 7 Plus đã lấy của bà T cho H (không rõ nhân thân) được 2.000.000 đồng rồi điều khiển xe quay lại thị xã Đồng Xoài. Sau khi phát hiện bị mất trộm điện thoại Iphone 7 Plus bà T đã đến Công an xã Tiến Thành, thị xã Đồng Xoài trình báo sự việc. Ngày 22 tháng 02 năm 2018 L điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 14 thuộc phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài thì bị Công an thị xã Đồng Xoài kiểm tra, bắt giữ.

Tại kết luận định giá tài sản số: 167/KL-HĐĐG ngày 15 tháng 9 năm 2014 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: Tài sản đề nghị định giá là 01 máy tính bảng nhãn hiệu Samsung T805, 10.5 inch, 16GB, màu bạc có giá trị là: 9.500.000 đồng; 01 vỏ Usams Samsung Tab S10.5 SKY, màu đen có giá trị là: 150.000 đồng; Tổng giá trị tài sản là 9.650.000 đồng (bút lục số: 74, 75).

Tại kết luận định giá tài sản số: 12/KLĐG ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự kết luận: Tài sản đề nghị định giá là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus Rose Gold 128 GB, chính hãng, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường có giá trị là: 10.000.000 đồng (bút lục số: 80, 81).

Tại kết luận giám định pháp y tâm thần số: 396/KL-VPYTW ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Viện pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hòa kết luận: Tại thời điểm gây án và hiện nay Ngô Thị L bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi (bút lục số: 273, 274).

Quá trình điều tra Công an thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai thu giữ của Ngô Thị L các tài sản sau: Số tiền 2.000.000 đồng, 02 tờ Đô la Mỹ mỗi tờ có mệnh giá 02 đô, 01 điện thoại di động hiệu Viettel, 01 điện thoại di động hiệu LG, 01 cục xạc dự phòng kèm 01 dây sạc.

Quá trình điều tra Công an thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã thu giữ của Ngô Thị L các tài sản sau: 01 xe mô tô biển số: 43H1-08208, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 43H1-08208 mang tên Huỳnh Thị H, 01 điện thoại hiệu Samsung J7, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, 01 túi sách da màu nâu, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 khăn trùm mặt màu nâu, 01 găng tay màu đỏ sọc, 01 thìa khóa kim loại, 01 cụ pin dự phòng, 01 áo khoác dài tay màu tím, 01 đôi dép quai hậu màu đen, 01 quần Jean màu đen, 01 kính mắt màu đỏ và số tiền 5.400.000 đồng (bút lục số: 213, 201).

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, bà Nguyễn Khải H (con gái ruột của Ngô Thị L) đã nộp số tiền 16.000.000 đồng để bồi thường cho các bị hại (bút lục số: 338) Ngày 11 tháng 9 năm 2014 tại Công an phường Trà Bá, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai, Ngô Thị L đã nhận lại số tiền 700.000 đồng để đi khám bệnh.

Ngày 15 tháng 5 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài đã bàn giao 01 xe mô tô biển số: 43H1- 08208 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 43H1-08208 mang tên Huỳnh Thị H cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để điều tra, xử lý theo thẩm quyền (bút lục số: 201).

Ngày 05 tháng 12 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài ra quyết định xử lý vật chứng số: 03, bồi thường cho bà Phạm Thị TT số tiền: 10.000.000 đồng. Bà TT đã nhận tiền bồi thường, đề nghị HĐXX xét xử xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật và không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

Bà Nguyễn Ngọc B yêu cầu bị cáo Ngô Thị L bồi thường tài sản đã chiếm đoạt bị mất là: 13.000.000 đồng và đề nghị hội đồng xét xử xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số: 07/CTr-VKS ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Ngô Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s, q khoản 1, Điều 51; điểm g, h, khoản 1, Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ngô Thị L từ 12 đến 15 tháng tù. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 01/2014/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại các tài sản cá nhân đã thu giữ cho bị cáo, quản thủ số tiền: 13.400.000 đồng để bảo đảm thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc tự nguyện bồi thường cho bà Nguyễn Ngọc B số tiền là: 13.000.000 đồng.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Luật sư Hoàng Minh Q thống nhất với cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo ở mức khởi điểm mà Kiểm sát viên đề nghị là 12 tháng tù.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ngô Thị L đã khai nhận như sau: Lần 1: Khoảng 7 giờ 00 phút ngày 08 tháng 9 năm 2014, Ngô Thị L đến tiệm thuốc tây của bà Nguyễn Ngọc B tại phường W, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai để mua thuốc. Lúc này, tiệm thuốc không có người trông coi và trên bàn có 01 máy tính bảng hiệu Samsung T805 được bọc vỏ Usams Samsung Tab S10.5 SKY nên L này sinh ý định trộm chiếc máy tính bảng trên. L tiến lại gần, dùng tay lấy máy tính bảng, mang ra ngoài và đón taxi đi. Đến chợ Phù Đổng thuộc phường W, thành phố PleiKu, L xuống xe và cất giấu chiếc máy tính bảng vào bãi cỏ trong chợ. Khoảng 9 gờ cùng ngày L bị bà B phát hiện báo Công an bắt giữ. Chiếc máy tính không thu hồi được. Lần 2: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 20 tháng 02 năm 2018, Ngô Thị L điều khiển xe mô tô biển số: 43H1- 08208 đi từ Bình Dương đến thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Khi đi ngang qua trường mầm non “Bé yêu” thuộc xã W, thị xã Đồng Xoài do bà Phạm Thị TT làm chủ, thấy văn phòng của trường mở cửa, không có người trông coi nên L dừng xe và đi bộ vào bên trong. Phát hiện trên bàn có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus nên nảy sinh ý định trộm chiếc điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. L dùng tay lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi xách đeo ở phía trước ngực rồi lên xe đi về thành phố Hồ Chí Minh để bán điện thoại. Sau đó L bán điện thoại di động Iphone 7 Plus đã lấy của bà TT cho H (không rõ nhân thân) được 2.000.000 đồng rồi điều khiển xe quay lại thị xã Đồng Xoài. Ngày 22 tháng 02 năm 2018 L điều khiển xe mô tô đi trên Quốc lộ 14 thuộc phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài thì bị Công an thị xã Đồng Xoài kiểm tra, bắt giữ. Chiếc điện thoại không thu hồi được.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa giống như nội dung cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, thấy phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền để tiêu xài nên ngày 08 tháng 9 năm 2014, Ngô Thị L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy tính bảng hiệu Samsung T805 được bọc vỏ Usams Samsung Tab S10.5 SKY của bà Nguyễn Ngọc B tại phường W, thành phố PleiKu, tỉnh Gia Lai. Ngày 20 tháng 02 năm 2018 Ngô Thị L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của bà Phạm Thị TT tại xã W, thị xã Đồng Xoài. Hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, trong quá trình thực hiện tội phạm bị cáo điều khiển được hành vi của mình và nhận thức được rằng việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân, muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng mà bị cáo đã phạm tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân là khách thể được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của bà B và bà TT có tổng giá trị là 19.650.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Từ năm 2008 đến phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo liên tục phạm tội, đồng thời chưa chấp hành Bản án số: 01/2014/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi về tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, cần áp dụng điểm g, h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, tài sản đã được trả lại 01 phần cho chủ sở hữu, khi phạm tội bị cáo bị hạn chế năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên được Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, q khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà TT không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Bị hại Nguyễn Ngọc B yêu cầu bị cáo L bồi thường tài sản đã chiếm đoạt bị mất là: 13.000.000 đồng. Tại phiên Tòa bị cáo L đồng ý bồi thường cho bà B số tiền là 13.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nghuyện của bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Các tài sản gồm: 02 tờ Đô la Mỹ mỗi tờ có mệnh giá 02 đô, 01 điện thoại di động hiệu Viettel, 01 điện thoại di động hiệu LG, 01 cục xạc dự phòng kèm 01 dây sạc, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, 01 túi sách da màu nâu, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 khăn trùm mặt màu nâu, 01 găng tay màu đỏ sọc, 01 thìa khóa kim loại, 01 cụ pin dự phòng, 01 áo khoác dài tay màu tím, 01 đôi dép quai hậu màu đen, 01 quần Jean màu đen, 01 kính mắt màu đỏ là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Quản thủ số tiền: 13.400.000 đồng để bảo đảm thi hành án.

Đối với 01 điện thoại Samsung J7 là điện thoại của bà Lê Thị T bị mất trộm ngày 14 tháng 02 năm 2018 tại phường W, thị xã Đồng Xoài chưa các định được chủ sở hữu nên cần giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài điều tra xử lý theo thẩm quyền.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài và Luật sư Hoàng Minh Q là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Thị L phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng 1 Điều 173; điểm b, s, q khoản 1, Điều 51; điểm g, h khoản 1, Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị L 12 (mười hai) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 01/2014/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi thì bị cáo Ngô Thị L phải chấp hành tổng hợp hình phạt là: 42 (bốn hai) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22 tháng 02 năm 2018. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Giao 01 điện thoại Samsung J7 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Thị L các tài sản gồm: 02 tờ Đô la Mỹ mỗi tờ có mệnh giá 02 đô, 01 điện thoại di động hiệu Viettel, 01 điện thoại di động hiệu LG, 01 cục xạc dự phòng kèm 01 dây sạc, 01 điện thoại Nokia màu xanh, 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, 01 túi sách da màu nâu, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 khăn trùm mặt màu nâu, 01 găng tay màu đỏ sọc, 01 thìa khóa kim loại, 01 cụ pin dự phòng, 01 áo khoác dài tay màu tím, 01 đôi dép quai hậu màu đen, 01 quần Jean màu đen, 01 kính mắt màu đỏ.

- Quản thủ số tiền: 13.400.000 đồng để bảo đảm thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 0001651, quyển số: 0034, ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài).

4. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Ngô Thị L phải bồi thường cho bà Nguyễn Ngọc B số tiền là 13.000.000 đồng.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo Ngô Thị L phải chịu là: 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về