Bản án 12/2019/HS-ST ngày 31/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 31/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 01 năm 2019, tại phòng xét xử tầng 2 - trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế T (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 11/7/1985 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 251c, đường T, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nơi cư trú: Ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị Q (tức T), sinh năm 1963; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/11/2018, tạm giam từ ngày 02/12/2018 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thế T2, sinh năm 1961; nơi cư trú: Ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Vi Mạnh L, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ngõ 1, thôn V, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 05 phút ngày 29/11/2018, tại khu vực ngõ 3, đường T, thôn V, xã H, thành phố L, tổ công tác Công an thành phố L phát hiện Vi Mạnh L có biểu hiện phạm tội về ma túy, qua kiểm tra thu giữ trong lòng bàn tay trái của Vi Mạnh L01 gói giấy bạc bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã đưa Vi Mạnh L về trụ sở UBND xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn lập biên bản sự việc.

Trên cơ sở lời khai của Vi Mạnh L và các tài liệu khác, cùng ngày 29/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Thế T. Khám xét nơi ở của Nguyễn Thế T tại ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L thu giữ 01 túi nilon chứa 05 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng và số tiền 500.000đ. Quá trình khám xét, tổ công tác Công an thành phố L phát hiện Nông Tùng L đến nhà

Nguyễn Thế T tìm mua ma túy để sử dụng, tiến hành kiểm tra, lập biên bản sự việc đối với Nông Tùng Lâm không phát hiện Nông Tùng L cất giấu ma túy trên người.

Kết luận giám định số 11/KL-PC09 ngày 02/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Vi Mạnh L là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,043 gam (đã trừ bì); chất tinh thể màu trắng và 05 viên nén màu hồng thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Thế T đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,734 gam (đã trừ bì).

Quá trình điều tra Nguyễn Thế T và Vi Mạnh L khai nhận: Bản thân Nguyễn Thế T và Vi Mạnh L có quan hệ quen biết từ trước, do Vi Mạnh L cần mua ma túy để sử dụng, Nguyễn Thế T đã bán ma túy cho Vi Mạnh L02 lần, cụ thể:

Lần 1: Ngày 25/11/2018 tại nhà của Nguyễn Thế T ở ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L, Nguyễn Thế T bán cho Vi Mạnh L 01 gói ma túy dạng tinh thể giá 200.000 đồng.

Lần 2: Ngày 29/11/2018 tại nhà của Nguyễn Thế T ở ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L, Nguyễn Thế T bán cho Vi Mạnh L 01 gói ma túy dạng tinh thể giá 200.000 đồng.

Về nguồn gốc ma túy, quá trình điều tra Nguyễn Thế T khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 29/11/2018 Nguyễn Thế T đi từ nhà đến khu vực ngõ 3 P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn mua 05 viên ma túy tổng hợp và ma túy dạng tinh thể giá 700.000đ với người đàn ông tên Trọng (không rõ họ tên, địa chỉ), Nguyễn Thế T cất giấu ma túy mua được trong người và đi về nhà ở ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L, sau đó chia ma túy dạng tinh thể thành 01 gói bán cho Vi Mạnh L, số ma túy còn lại Nguyễn Thế T cất giấu để bán.

Tại bản Cáo trạng số 13/KSĐT ngày 15/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Nguyễn Thế T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế T khai toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố: Bị cáo thừa nhận vào ngày 25/11/2019 và 29/11/2018 đã được bán ma túy cho Vi Mạnh L, mỗi lần 200.000 đồng; bị cáo bán ma túy cho Vi Mạnh L 02 lần này ngoài ra không còn lần nào khác nữa.

Tại phiên tòa, người làm chứng anh Vi Mạnh L trình bày: Khoảng 14 giờ ngày 29/11/2018, anh đi xe máy từ nhà tại thôn V, xã H, thành phố L sang nhà Nguyễn Thế T, cùng xóm để mua ma túy đá về sử dụng. Trước đó, anh có gọi điện thoại cho Nguyễn Thế T bảo bán cho anh 200.000 đồng ma túy đá và được Nguyễn Thế T đồng ý. Khi đến nhà Nguyễn Thế T, anh đưa cho Nguyễn Thế T 200.000 đồng tiền mua ma túy và nhận 01 gói giấy bạc đựng ma túy đá. Anh cầm gói giấy bạc trong lòng bàn tay trái, đang điều khiển xe đi về đến đầu ngõ 3, thôn V, xã H, thành phố L thì bị lực lượng công an kiểm tra, rồi đưa anh cùng tang vật về trụ sở làm việc. Anh được mua ma túy tại nhà Nguyễn Thế T 02 lần, mỗi lần mua 200.000 đồng, mục đích mua ma túy là để sử dụng, lần đầu mua vào ngày 25/11/2018 và ngày 29/11/2019 vừa mua xong chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thế T2 trình bày: Ngày 27/11/2019 ông có cho Nguyễn Thế T mượn 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC màu bạc, điện thoại cũ ông mua giá 1.500.000 đồng. Ông không biết Nguyễn Thế T đã sử dụng điện thoại của ông vào việc mua bán trái phép chất ma túy, ông đề ngh ị được xin lại chiếc điện thoại để sử dụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như trong bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Nguyễn Thế T phạm "Tội mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm b khoản 2, Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Đề nghị: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T từ 07 năm đến 08 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 02 phong bì niêm phong đựng chất ma túy sau giám định và 01 bộ bình có gắn vòi hút. Truy thu đối với bị cáo số tiền 200.000 đồng thu lợi bất chính. Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo, xác định trong đó 200.000 đồng là tiền bán ma túy cho Vi Mạnh L, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu để sung công quỹ Nhà nước; số tiền 300.000 đồng là tiền bị cáo làm thuê có, trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án. Trả lại cho ông Nguyễn Thế T2 01 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu HTC màu bạc, số Imei: 990005027230961.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thế T thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo không có ý kiến đối đáp, tranh luận lại với đề nghị luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố; xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; phù hợp với biên bản khám xét, tang vật thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ hành vi bị cáo đã thực hiện và kết luận giám định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây nguy hại đến trật tự, an ninh xã hội. Bị cáo đã thực hiện mua bán trái phép chất ma túy cho Vi Mạnh Lnhiều lần (02 lần), hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, để có căn cứ quyết định hình phạt, cần phải xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có tài sản riêng, không có điều kiện để thi hành.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[8] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy là vật nhà nước cấm lưu hành đựng trong 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định và 01 bộ bình có gắn vòi hút là công cụ phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu để tiêu hủy. Truy thu đối với bị cáo số tiền 200.000 đồng bán ma túy ngày 25/11/2018 đã thu lợi bất chính. Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thế T, xác định trong đó 200.000 đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho Vi Mạnh L, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu để sung công quỹ Nhà nước; số tiền 300.000 đồng là tiền bị cáo làm thuê mà có, trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án. Đối với chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu HTC màu bạc, số Imei: 990005027230961, xác định ông Nguyễn Thế T2 là chủ sở hữu, việc bị cáo Nguyễn Thế T mượn sử dụng phạm tội ông Nguyễn Thế T2 không biết, trả lại cho ông Nguyễn Thế T2.

[9] Đối với Vi Mạnh L có hành vi tàng trữ trái phép 0,043 gam chất ma túy Methamphetamine, do khối lượng ma túy chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố Lạng Sơn đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.

[10] Đối với Nông Tùng L, quá trình điều tra đã làm rõ ngày 29/11/2018 L đến nhà Nguyễn Thế T để mua ma túy, nhưng chưa mua được ma túy thì bị tổ công tác Công an thành phố L yêu cầu kiểm, lập biên bản sự việc, quá trình kiểm tra Nông Tùng Lâm không phát hiện Nông Tùng L cất giấu ma túy do vậy không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan Điều tra không xử lý, Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[11] Đối với người đàn ông tên T là người bán bán ma túy cho bị cáo tại khu vực vực ngõ 3 P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, do Nguyễn Thế T không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của Trọng nên không có cơ sở để xác minh, xử lý trong vụ án, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xử lý.

[12] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[13] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T 07 (bẩy) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 29/11/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu để tiêu hủy 02 (hai) phong bì niêm phong đựng chất ma túy sau giám định và 01 bộ bình vòi có gắn vòi hút.

- Tịch thu để sung công quỹ Nhà nước đối số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Thế T.

- Truy thu sung công quỹ Nhà nước đối với bị cáo Nguyễn Thế T số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền thu lợi bất chính.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế T số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Trả lại cho ông Nguyễn Thế T2 01 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu HTC màu bạc, số Imei: 990005027230961. 

(Các vật chứng nói trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, có đặc điểm như được mô tả trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/01/2019 và ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 16/01/2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án án dân sự phố Lạng Sơn).

4. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thế T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 31/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về