Bản án 122/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 122/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 2 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1297/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Vũ L; Sinh ngày 02 tháng 5 năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: 57 TS, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Tr và bà Trần Thị H; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 23/9/2018. Có mặt.

Bị hại: Ông Cai Du Q; Sinh năm 1994; Quốc tịch: Trung Quốc. (Vắng mặt)

Tạm trú: 68/2B ĐN, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Kim Ph; sinh năm: 1976

Địa chỉ: 57 TS, phường K, Quận G, thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 21/9/2018, Lê Vũ L điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen - đỏ, biển số 59U1- 059.85 lưu thông trên đường Trần Văn Đang, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thì gặp bạn là Đinh Công L1 điều khiển xe mô tô hiệu Honda Click màu đen biển số 59P1- 060.01, L1 rủ L về nhà chơi và L đồng ý. L1 điều khiển xe đi trước dẫn đường, khi đến giao lộ đường Nguyễn Giản Thanh - Trường Sơn, Phường 15, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, L nhìn thấy anh Cai Du Q (quốc tịch Trung Quốc) đang đi bộ dưới lòng đường đến trước nhà số 19 Trường Sơn, Phường 15, Quận 10 trên tay anh Q đang cầm điện thoại di động hiệu Xiao Mi Note 3. L đang cần tiền tiêu xài nên L điều khiển xe từ phía sau chạy lên áp sát bên phải anh Cai Du Q, L dùng tay trái cướp giật điện thoại của anh Cai Du Q rồi điều khiển xe tẩu thoát.

Thấy vậy, L1 cũng điều khiển xe chạy theo. Cùng lúc này, anh Trần Thiện Nghĩa là Cán bộ Công an và anh Huỳnh Hải là bảo vệ dân phố Phường 15, Quận 10 đang đi tuần tra, nhìn thấy L giật điện thoại nên chạy xe mô tô đuổi theo và bắt giữ được L1 đưa về trụ sở Công an làm việc. Sau khi bị cướp giật, anh Cai Du Q đến Công an Phường 15, Quận 10 trình báo.

Tại Công an phường, L1 không thừa nhận cùng L cướp giật tài sản nên Công an Phường 15, Quận 10 yêu cầu L1 dùng điện thoại liên lạc hẹn gặp L tại Trần Văn Đang, Quận 3. Khi L đến nơi hẹn thì bị Công an Phường 15, Quận 10 kiểm tra phát hiện trên người L có điện thoại di động hiệu Xiao Mi Note 3 của anh Cai Du Q nên đã bắt giữ L, đồng thời thu giữ điện thoại cùng phương tiện đưa về trụ sở làm rõ.

Ngày 23/9/2018 Lê Vũ L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Quận 10 ra Lệnh bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp. Tại Cơ quan điều tra, L khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Vũ L thừa nhận: Do muốn có tiền tiêu xài nên thấy bị hại cầm điện thoại đi bộ phía trước cùng chiều, bị cáo ép sát vào bên phải dùng tay trái giật chiếc điện thoại rồi tang ga bỏ chạy.

Kết luận định giá tài sản số 891/KL- ĐGTS ngày 25/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 10 có kết luận: “Điện thoại di động hiệu Xiao Mi Note 3 màu đen của anh Cai Du Q bị L cướp giật có giá trị 1.090.000 đồng” Tại bản cáo trạng số 75/CT-VKS-P2 ngày 18/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Vũ L về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Vũ L về tội “Cướp giật tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 3-4 măm tù.

Li nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử áp dụng mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Lê Vũ L đã có hành vi điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Wave màu đen - đỏ, biển số 59U1- 059.85 ép sát tiếp cận và nhanh chóng công khai giật chiếc điện thoại di dộng của bị hại Cai Du Q. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, s Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại Khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Cai Du Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về vật chứng: Một xe mô tô biển số 59U1-05985 thu giữ của bị cáo – do bà Lê Thị Kim Ph đứng tên chủ sở hữu. Trong giai đoạn điều tra xác định, bà Ph cho cha bị cáo là ông Lê Văn Tr mượn làm phương tiện đi lại và ông Tr để xe tại nhà bị cáo lấy sử dụng rồi dùng làm phương tiện cướp giật tài sản, bà Ph ông Tr không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố đã giao trả xe cho bà Ph là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Vũ L phạm tội "Cướp giật tài sản".

Áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điểm i, s Khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Lê Vũ L 03 (ba) năm tù.

Thời hạn từ tính từ ngày 23/9/2018.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:122/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về