Bản án 122/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 122/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 103/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hữu N; Giới tính: Nam; Sinh năm 1999; Nơi sinh: Tỉnh Đồng Tháp; nơi ĐKHKTT: Tổ 20, ấp Hòa Khánh, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Nhà không số thuộc ấp 1B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm thuê; họ tên cha: Lê Hữu T, sinh năm 1973; họ tên mẹ: Trần Thị Bé C, sinh năm 1982; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con.

Nhân thân: Ngày 29/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, (Án số 59/2016/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/9/2017, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 554/GCN của Giám thị trại giam Cao Lãnh.

Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên toà.

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1992 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thanh T: Bà Đào Thị Kim T11, sinh năm 1993 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964. Bà T uỷ quyền cho bà T1 theo Giấy uỷ quyển được lập vào ngày 05/11/2018; nơi cư trú: Ấp An Thạnh, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An (Có mặt).

2. Ông Đào Minh T, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp 3, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai

(Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Bùi Minh T, sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp Tân Vinh, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Đào Thị Kim T11, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp An Thạnh, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An (Có mặt).

3. Ông Lê Hữu T, sinh năm 1973; nơi cư trú: Tổ 20, ấp Hòa Khánh, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15/9/2018, ông Đào Minh T điều khiển xe mô tô biển số 60V9 - 0094 chở khách tên Sơn (không rõ lai lịch) trên đường Liên ấp 1-2-3 theo hướng từ đường Tây Lân về đường Võ Văn Vân. Khi lưu thông đến đoạn đường thuộc ấp 1B xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh thì ông Tuấn phát hiện Lê Hữu N điều khiển xe mô tô biển số 59N2 - 632.90 lưu thông chiều ngược lại với vận tốc cao. Khi còn cách xe của ông Tuấn khoảng 05 mét thì bất ngờ N điều khiển xe chuyển hướng sang chiều đường ngược lại vào phần đường của ông Tuấn. Thấy vậy, ông Tuấn đánh lái tránh sang phải nhưng do khoảng cách quá gần nên xe của N va chạm vào bên trái của xe ông Tuấn làm cả xe và anh Tuấn cùng ông Sơn té ngã xuống đường. Xe mô tô của N tiếp tục va chạm vào xe mô tô biển số 62P1 – 323.69 do ông Nguyễn Thanh T điều khiển lưu thông phía sau cùng chiều với xe ông Tuấn làm tất cả người và xe té ngã xuống đường, ông Tùng bị thương nặng tử vong tại chỗ. Ông Tuấn bị thương nhẹ nên ở lại hiện trường còn ông Sơn bỏ đi khỏi hiện trường. Riêng N bị thương được ông Lê Văn T (chú của N) và ông Lê Thanh P (bạn N) nghe tin đến hiện trường đưa N cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy. Nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để xác định nguyên nhân vụ tai nạn.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 1174/TT.18 ngày 15 tháng 10 năm 2018 của Trung tâm pháp y –Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Nguyên nhân chết của ông Nguyễn Thanh T do chấn động tim và dập phổi. Có 47,62mg Ethanol/100ml máu tĩnh mạch đùi phải.

Đối với các thương tích của ông Đào Minh T và Lê Hữu N. Cả hai đều đã từ chối giám định thương tích. 

Kết luận giám định số 4383/C54B ngày 07/12/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định dấu vết va chạm giữa các phương tiện:

- Dấu vết trượt xước,vỡ, bám chất màu đen mặt ngoài bên trái cung trước chắn bùn bánh trước xe mô tô biển số 60V9-0094 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp dấu vết bám chất màu đỏ mặt ngoài bên trái cung trước chắn bùn bánh trước và ốp bên trái nhún bánh trước xe mô tô biển số 59N2-632.90 có chiều trước về sau, từ phải sang trái.

- Dấu vết trược xước, bám chất màu đen bọc tay cầm lái và núm kim loại bao vệ tay cầm lái xe mô tô biển số 60V9-0094 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp dầu vết trượt xước, rách bọc tay cầm lái bên trái xe mô tô biển số 59N2-63290 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.

- Dấu vết trượt xước khuyết kim loại mặt trước ốp lốc máy bên trái; cong biến dạng để chân trước xe mô tô biển số 60V9-0094 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp dấu vết trượt xước bám chất màu đen, cong biến dạng đầu cần sang số phía trước, trượt xước khuyết kim loại bám chất màu đen mặt ngoài ốp lốc máy, cong biến dạng để chân trước bên trái xe mô tô biển số 59N2-632.90 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.

- Phía trước bên trái xe mô tô biển số 60V9-0094 với phía trước bên trái xe mô tô biển số 59N2-632.90 là vị trí va chạm đầu tiên giữa 02 phương tiện. Không đủ cơ sở xác định tọa độ giữa hai phương tiện khi va chạm.

- Dấu vết trượt xước, khuyết kim loại phía trước nhún bên trái, cong vênh vành bánh trước, bám chất màu trắng ốc đầu trục bánh trước xe mô tô biển số 59N2-632.90 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp dấu vết trượt xước, khuyết kim loại mặt trước và phía sau nhún trước bên phải, bám chất màu trắng ốc đầu trục bên trái bánh xe mô tô biển số 62P1-323.69 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.

- Dấu vết trượt xước bám chất màu đen, cong biến dạng khung kim loại phía trước cụm công tắc đen tín hiệu tay lái bên trái xe mô tô biển số 59N2-632.90 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái phù hợp dấu vết trượt xước, khuyết kim loại mặt trước tay thắng bên trái xe mô tô biển số 62P1-323.69 có chiều từ trước về sau, từ phải sang trái.

- Phía trước bên trái xe mô tô biển số 59N2-632.90 và phía trước bên trái xe mô tô biển số 62P1-323.69 là vị trí va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện . Tọa độ va chạm giữa hai phương tiện trên đường. Liên ấp 1-2-3 nằm trước đầu vết cày số 5 và nằm trên chiều đường bên phải theo hướng từ đường Tây Lân đến đường Võ Văn Vân.

- Dấu vết cày ký hiệu số 5 phù hợp do xe mô tô biển số 59N2-632.90 tạo ra. Không đủ cơ sở xác định do bộ phận nào của xe tạo ra.

- Không phát hiện thấy dấu vết va chạm với phương tiện khác trên xe mô tô biển số 60V9-0094, xe mô tô biển số 59N2-623.90 và xe mô tô biển số 62P1-323.69.

-Trên cơ sở hình thành dấu vết và hồ sơ vụ tai nạn giao thông đường bộ nêu trên, xác định:

+ Khi xảy ra va chạm xe mô tô biển số 59N2-632.90 đang chuyển động bình thường trên đường Liên ấp 1-2-3 theo hướng từ đường Võ Văn Vân đến đường Tây Lân, xe mô tô biển số 60V9-0094 và xe mô tô biển số 62P1-323.69 chuyển động bình thường theo hướng từ đường Tây Lân về đường Võ Văn Vân.

+ Xe mô tô biển số 59N2-632.90 va chạm với xe mô tộ biển số 60V9-0094 sau đó va chạm với xe mô tô biển số 62P1-323.69.

Căn cứ vào Kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án thì nguyên nhân chính dẫn đến vụ tai nạn nêu trên là do Lê Hữu N điều khiển xe mô tô biển số 59N2 - 632.90 lưu thông không có Giấy phép lái xe theo quy định, lưu thông lấn trái vi phạm vào Khoản 9 Điều 8 và Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ gây tai nạn làm ông Nguyễn Thanh T tử vong.

Đối với ông Đào Minh T, ông Nguyễn Thanh T điều khiển xe đúng theo quy định nên không có lỗi (ông Tùng đã tử vong).

Vật chứng trong vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 62P1 - 323.69. Qua xác minh do Nguyễn Thanh T đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả cho bà Đào Thị Kim T11 là vợ của ông T (BL:79).

- 01 xe mô tô biển số 59N2 - 632.390. Qua xác minh do ông Bùi Minh T chủ sở hữu. Ông T nhờ ông Nguyễn Văn T đứng tên chủ sở hữu giúp. Ngày 15/9/2018, ông T cho ông Lê Thanh Phong (công nhân làm chung công ty với anh T) mượn xe. Vào ngày 15/9/2018, ông Phong cho Lê Hữu N mượn xe mua đồ nhưng không biết N không có Giấy phép lái xe theo quy định. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả ông Bùi Minh T (BL:81).

- 01 xe mô tô biển số 60V9 - 0094. Qua xác minh do bà Đào Thị X (Sinh năm 1985, HKTT: ấp Hữu Phước, xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu), bà X cho ông Đào Minh T sử dụng xe làm phương tiện đi lại. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả xe cho ông Đào Minh T (BL:80)

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Lê Hữu N khai nhận không nhớ diễn biến vụ tai nạn giao thông. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của bị hại Đào Minh T, lời khai những người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám xe, kết luận giám định pháp y, kết luận giám định dấu vết va chạm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã chứng minh hành vi điều khiển xe gây ra vụ tai nạn giao thông nói trên của Lê Hữu N.

Tại bản Cáo trạng số 118/CT - VKS ngày 16 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Hữu N về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Hữu N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Lê Hữu N từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ" theo Điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Bà Đào Thị Kim T1 là người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thanh T trình bày: Sau sự việc xảy ra ông Lê Hữu T là cha của bị cáo có đến bồi thường cho gia đình bà số tiền 10.000.000 đồng. Và hai bên có thỏa T, sau đó vài tháng thì gia đình bị cáo sẽ đến bồi thường thêm cho gia đình bà số tiền 10.000.000 đồng nữa; nhưng từ đó đến nay bị cáo và gia đình không một lần đến hỏi thăm hay bồi thường tiền như đã thỏa T. Tại toà bà tiếp tục yêu cầu bị cáo bồi thường cho gia đình bà số tiền 100.000.000 đồng bao gồm tiền mai táng, nuôi 02 con nhỏ, tổn thất tinh thần và đề nghị xét xử bị cáo theo quy định pháp luật.

Bị hại Đào Minh T, sau khi bị tại nạn từ chối giám định, không yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lê Hữu N khai nhận không nhớ diễn biến vụ tai nạn giao thông, chỉ nhớ sau khi uống rượu bia tại nơi làm việc, bị cáo mượn xe mô tô biển số 59N2 - 632.90 của Lê Thanh Phong đi mua thuốc lá thì xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, qua thẩm tra, xét hỏi, công bố lời khai của bị hại Đào Minh T, lời khai những người có quyền lợi, N vụ liên quan. Căn cứ vào biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản khám xe, kết luận giám định pháp y, kết luận giám định dấu vết va chạm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 15/9/2018 tại trước nhà A4/37L, đường Liên ấp 1-2-3, tổ 17, ấp 1B, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo Lê Hữu N đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 59N2 - 632.90 lưu thông không có Giấy phép lái xe, lấn trái đường vi phạm vào Khoản 9 Điều 8 và Khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ gây tai nạn làm ông Nguyễn Thanh T tử vong tại chỗ.

[3] Với những tình tiết được chứng minh tại phiên Tòa thì Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Hữu N đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm được quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[4] Bị cáo điều khiển xe mô tô trên 50cc không có Giấy phép lái xe theo quy định gây tai nạn làm chết một người là thuộc trường hợp định khung hình phạt, cần áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử bị cáo là phù hợp.

[5] Bị cáo khai có uống rượu, bia chỗ làm, sau đó điều khiển xe mô tô biển số 59N2 - 632.90 đi mua thuốc lá thì xảy ra tai nạn. Tuy nhiên, căn cứ vào Phiếu xét nghiệm ngày 10/01/2019 của Bệnh viện Chợ Rẫy thể hiện “tìm không thấy kết quả rượu máu của bệnh nhân Lê Hữu N, sinh năm 1999 trong sổ rượu máu lưu tại khoa sinh hóa ngày 16/9/2018”. Do đó, không có căn cứ để truy tố, xét xử bị cáo thêm Điểm b Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Tội phạm bị cáo gây ra là nguy hại cho xã hội, gây mất trật tự an toàn khi tham gia giao thông đường bộ, hiện nay tình hình tai nạn giao thông diễn ra rất phức tạp, gây hao tổn tài sản, tính mạng và sức khoẻ con người. Do đó, Luật giao thông đường bộ quy định rõ, tất cả mọi người khi tham gia giao thông phải hết sức cẩn trọng cao độ trong mọi tình huống và phải chấp hành nghiêm luật giao thông đường bộ, nhưng bị cáo không tuân thủ các quy tắc của Luật giao thông đường bộ, điều khiển xe mô tô lưu thông không có Giấy phép lái xe theo quy định, lấn trái đường gây tai nạn làm chết một người. Do đó, khi lượng hình cần có mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân, lai lịch của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung nhất là tình hình tai nạn giao thông hiện nay trên địa bàn huyện Bình Chánh có chiều hướng gia tăng và phức tạp.

[7] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 29/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, (Án số 59/2016/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/9/2017, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 554/GCN của Giám thị trại giam Cao Lãnh. Khi phạm tội và đưa xét xử trong vụ án nói trên bị cáo là người dưới 18 tuổi, căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì không được xem là án tích nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm đối với bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét đến nhân thân của bị cáo mà có mức án nghiêm.

[8] Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý. Sau sự việc xảy ra, ông Trí là cha bị cáo đã bồi thường một phần cho đại diện bị hại với số tiền 10.000.000 đồng. Hội đồng xét xử nghĩ có chiếu cố giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được quy tại các Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[9] Đối với ông Đào Minh T, ông Nguyễn Thanh T điều khiển xe đúng theo quy định nên không có lỗi (anh Tùng đã tử vong), Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với ông Lê Thanh Phong có hành vi cho Lê Hữu N mượn xe nhưng không biết N đã uống rượu bia và không biết N không có Giấy phép lái xe theo quy định nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không có căn cứ xử lý về hành vi “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Về dân sự: Tại tòa bà Đào Thị Kim T1 tiếp tục yêu cầu bị cáo bồi thường cho gia đình bà số tiền 100.000.000 đồng là chi phí mai táng, nuôi hai con nhỏ và tổn thất tinh thần. Xét, yêu cầu của bà Thừa là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận và buộc bị cáo phải có N vụ thực hiện.

[11] Vật chứng của vụ án:

Đối với xe mô tô biển số 62P1 - 323.69. Qua xác minh do ông Nguyễn Thanh T đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả cho bà Đào Thị Kim T1 là vợ của bị hại Tùng (BL:79).

Đối với xe mô tô biển số 59N2 - 632.390. Qua xác minh do ông Bùi Minh T chủ sở hữu. Ông T nhờ ông Nguyễn Văn T đứng tên chủ sở hữu giúp. Ngày 15/9/2018, ông T cho ông Lê Thanh Phong (công nhân làm chung công ty với anh T) mượn xe. Vào ngày 15/9/2018, ông Phong cho Lê Hữu N mượn xe mua đồ nhưng không biết N không có giấy phép lái xe theo quy định. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả xe trên cho ông Bùi Minh T (BL:81).

Đối với xe mô tô biển số 60V9 - 0094. Qua xác minh do bà Đào Thị X đứng tên chủ sở hữu, bà X cho ông Đào Minh T sử dụng xe làm phương tiện đi lại. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả xe trên cho ông Đào Minh T (BL:80)

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Hữu N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 260; các Điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Hữu N 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt vào chấp hành án.

Về dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 584, Điều 585, Điều 591 và Điều 593 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Lê Hữu N phải bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Đào Thị Kim T1 số tiền cụ thể là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), thực hiện một lần ngay khi Bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện việc thi hành án thì còn phải trả thêm tiền lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Khi bản án có liệu lực pháp luật, đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành án theo các Điều 7, 30, 31 và 32 của Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo và đương sự có mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án; các đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:122/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về