Bản án 124/2019/HS-ST ngày 08/04/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH Q

BẢN ÁN 124/2019/HS-ST NGÀY 08/04/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 8 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 134/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2019/QĐXXST-HS ngày 25/3/2019 đối với bị cáo:

Phan Thị O - Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20 tháng 01 năm 1970, tại tỉnh H; Nơi cư trú: Số 128/173 Hàng Kênh, quận L, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Con ông: Phan Trọng G (đã chết) và bà: Vũ Thị N, sinh năm 1945; Chồng là: Nguyễn Trung T, sinh năm 1970; Có 2 con lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2006 bị tòa án nhân dân quận N, thành phố H xử phạt 5 năm tù về tội “chứa mại dâm”, năm 2009 chấp hành xong hình phạt và chấp hành xong bản án. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 29/12/2018, hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh H, Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Chị Lô Thị May T; anh Cao Thành L, anh Tạ Mạnh T; anh Trần Văn G; anh Phạm Văn Đ, chị Nguyễn Thị P - Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018, Phan Thị O thuê một ngôi nhà ở tổ 7, khu 5, phường Hà Tu, thành phố H, tỉnh H với giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng) để mở quán cà phê mang tên Thanh Nga. Khoảng 22 giờ ngày 29/12/2018, O đang ở quán thì anh Trần Văn G làm nghề chở khách bằng xe mô tô, chở anh Tạ Mạnh T trú tại tổ 40, khu 4, phường Hà Trung, thành phố H và Cao Thành L trú tại tổ 11, khu 4, phường Hà Lầm, thành phố H đến quán cà phê. T nói với O cho 02 nhân viên để mua dâm, do quán không có nhân viên O nói chờ một tí và dùng điện thoại gọi cho Lô Thị May T, trú tại bản Xốp Khấu, xã Yên Thắng, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An đến để bán dâm, khoảng 10 phút sau T đến, O nói với T và L vào phòng thứ hai, trước khi vào phòng L đưa cho T 500.000 đồng để trả tiền mua dâm cho O, tại phòng L và T tự cởi quần áo và quan hệ tình dục. Cùng lúc đó O nói với anh G và T đưa xe mô tô vào trong để O đóng cửa quán. Đến khoảng 22 giờ 30 phút do thiếu một nhân viên bán dâm chưa đến, O ngó qua khe cửa thấy có một phụ nữ đi đến, nghĩ là gái bán dâm, O mở cửa lúc này lực lượng Công an đến kiểm tra bắt quả tang tại phòng số 2 từ ngoài vào L và T đang thực hiện hành vi mua bán dâm. Vật chứng thu giữ gồm: 01 vỏ bao cao su đã bị xé rách, trên vỏ bao có ghi chữ VIP PLUS; 01 bao cao su đã qua sử dụng. Qua kiểm tra khám xét tại quán cà phê Thanh Nga công an thu giữ trong khe tủ lạnh trong nhà bếp 48 bao cao su, thu trên khay nhựa trên nóc tủ lạnh 04 bao cao su có chữ “VIP PLUS” còn nguyên vẹn.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phan Thị O đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. O khai thuê nhà để mở quán cà phê và trực tiếp bán dâm cho khách, đây là lần đầu tiên O bố trí cho T bán dâm thì bị bắt quả tang nên chưa kịp thu tiền của khách, dự định khi mua dâm xong sẽ thu của khách 200.000đồng/1 khách và trả cho T 150.000 đồng/1 lần bán dâm còn O được hưởng 50.000 đồng.

Những người làm chứng: Anh Cao Thành L, anh Tạ Mạnh T, Trần Văn G, Nguyễn Thị P, Lô Thị May T, Phạm Văn Đ đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều có lời khai trong hồ sơ phù hợp diễn biến tình tiết vụ án, phù hợp với lời khai của bị cáo Phan Thị O.

Tại Cáo trạng số: 86/CT-VKSHL ngày 15/03/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H- tỉnh H đã truy tố bị cáo Phan Thị O về tội: “Chứa mại dâm” theo  khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Thị O từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/12/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo, qua tranh tụng tại phiên tòa bị cáo Phan Thị O thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang do công an thành phố H lập hồi 22 giờ 30 phút ngày 29/12/2018, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 29/12/2018, tại quán cà phê Thanh Nga ở tổ 7, khu 5, phường Hà Tu, thành phố H do bị cáo Phan Thị O làm chủ đã có hành vi bố trí cho Lô Thị May T bán dâm cho Cao Thành L với giá 200.000đồng/1 lần thì bị Công an bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Phan Thị O đã cấu thành tội “chứa mại dâm’’ quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Như Cáo trạng số 86/CT-VKSHL ngày 15/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố đối với Phan Thị O là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện tội phạm: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, gây mất trật tự tại địa P. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử công khai là cần thiết, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân xấu, vào năm 2006 đã bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố H xử phạt 5 năm tù về tội chứa dâm và đã chấp hành xong toàn bộ bản án vào năm 2009, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, đến ngày 29/12/2018 lại tiếp tục phạm tội chứa mại dâm.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số bao cao su thu giữ trong vụ án quá trình điều tra cơ quan điều tra công an thành phố H đã cho tiêu hủy toàn bộ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Đối với anh Cao Thành L là người mua dâm và chị Lô Thị May T là người bán dâm, trong quá trình điều tra cơ quan điều tra đã quyết định xử phạt hành chính.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. 

Tuyên bố: Bị cáo Phan Thị O phạm tội: ‘‘Chứa mại dâm ”;

Xử phạt: Bị cáo Phan Thị O: 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/12/2018.

Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phan Thị O phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai báo cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2019/HS-ST ngày 08/04/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:124/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về