Bản án 128/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 128/2019/HS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 09 tháng 10 năm 2019 và ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 126/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Tòng Văn B; tên gọi khác: Không; sinh năm 1993, tại xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Tòng Văn B, (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, (đã chết); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-6-2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn X; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1990 tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản H, xã CL, huyện Mường La, Sơn La; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: La Ha; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn H, sinh năm 1960 và bà Lò Thị L, sinh năm: 1960; vợ là Lò Thị T, sinh năm 1994 và 02 con, lớn 9 tuổi, nhỏ 7 tuổi; Tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-6-2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 07-6-2019, tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực Bản T, xã TM, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Tòng Văn B; trú tại: Bản N, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn X; nơi cư trú: bản H, xã CL, huyện Mường La, Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine (Theo Tòng Văn B và Lò Văn X khai nhận là Heroine). Có khối lượng 0,31 gam, trích toàn bộ 0,31 gam ký hiệu B1 làm mẫu gửi giám định chất ma túy.

- 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe WAVE, biển kiểm soát 26H3-7696 màu sơn xanh đen, số khung 155971, số máy 6156629 xe đã qua sử dụng cũ.

Bản Kết luận giám định số: 1071, ngày 13-6-2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu B1 là ma túy, loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,31gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,31 gam. Loại Heroine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định)

Tại cơ quan điều tra các bị cáo Tòng Văn B và Lò Văn X đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07-6-2019 Tòng Văn B đang chơi ở Công viên thị trấn TCthì gặp Lò Văn X và rủ Lò Văn X góp tiền đi mua ma túy sử dụng. X đồng ý rồi góp 50.000 đồng để mua ma túy. Sau đó, B điều khiển xe máy chở X xuống bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy. Khi đến bản Li, B và X hỏi mua của một người phụ nữ dân tộc Thái (B và X không biết họ, tên, địa chỉ nơi cư trú) được 01 (một) gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000đồng. B cất gói Heroine vừa mua được vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy chở X đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi B và X đi đến khu vực bản T xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn B, Lò Văn X về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 126/CT-VKS ngày 12-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Tòng Văn B mức án từ 20 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-6-2019.

Xử phạt bị cáo Lò Văn X mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-6-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01( một) phong bì thư niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, ngoài ghi: “Vật chứng giám định vụ Tòng Văn B+ ĐP – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 07-6-2019, một mảnh ni lon màu trắng + một vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của các bị cáo: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 07-6-2019, Tòng Văn B; trú tại: Bản N, xã CL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn X; nơi cư trú: bản H, xã CL, huyện Mường La, Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 ( một) gói ma túy có khối lượng 0,31 gam. Qua giám định là Heroine. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……………………….

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn X phạm tội lần đầu. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Tòng Văn B là người khởi xướng, rủ bị cáo Lò Văn X đi mua ma túy nên Tòng Văn B giữ vai trò chính trong vụ án. Đối với bị cáo Lò Văn X là người bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực nên phải chịu trách nhiệm cho hành vi mà mình gây ra. Cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

Song nhân thân bị cáo Tòng Văn B đã có một tiền án, tuy đã được đương nhiên xóa án tích nhưng vẫn bị coi là nhân thân xấu. Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X đều là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Tòng Văn B, Lò Văn X khai là mua của một người phụ nữ dân tộc thái (Không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 07-6-2019 với số tiền 100.000 đồng. Do đó Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ để làm rõ, mở rộng vụ án, cần chấp nhận. Đồng thời buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

Đối với vật chứng: 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe WAVE, biển kiểm soát 26H3-7696 màu sơn xanh đen, số khung 155971, số máy 6156629 xe đã qua sử dụng cũ là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội. Qua điều tra và tại phiên tòa xác định được ông Hà Văn N là chủ sở hữu hợp pháp, ông N không biết việc các bị cáo dùng vào việc phạm tội và đã cung cấp giấy tờ hợp pháp và có đơn xin xe. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã trả lại tài sản trên cho chủ sở hữu ông Hà Văn N là đúng quy định tại điểm a khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự, cần chấp nhận.

[3] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng: 01 (một) mảnh ni lon màu trắng + một vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu được niên phong trong phong bì thư có viền xanh đỏ, là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, Vận dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Về án phí: Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Tòng Văn B 22 ( hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-6-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

Xử phạt bị cáo Lò Văn X 20 ( hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-6-2019 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01( một) phong bì niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: “ Vật chứng nhập kho vụ Tòng Văn B - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/6/2019”, mặt sau phong bì niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu; Một mảnh ni lon màu trắng + một vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo Tòng Văn B, Lò Văn X được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:128/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về