Bản án 130/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 130/2019/HS-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 136/2019/HSST, ngày 17 tháng 9 năm 2019 Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2019/HSST-QĐ ngày 23/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn Th - Tên gọi khác: không Sinh ngày 06/9/1982, tại thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 25, khu Đ H 1, phường CĐ, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn Đ - sinh năm 1958 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị L - sinh năm 1959; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Năm 2004, bị Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cẩm Phả) xử phạt 30 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 01/9/2006.

+ Năm 2007, đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Quảng Ninh. Ngày 12/12/2009, hoàn thành chương trình cai nghiện.

+ Năm 2010, bị Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cẩm Phả) xử phạt 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 24/02/2012.

+ Năm 2012, đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội tỉnh Quảng Ninh. Ngày 17/7/2014, hoàn thành chương trình cai nghiện.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm Phả - Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Các anh Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1993; Đào Trọng T, sinh năm 1962 - Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 22 giờ ngày 22/6/2019, tại tổ 5, khu 6C, phường CTr, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh, Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang Lê Văn Th có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lê Văn Th tự giao nộp 01 (một) túi nilon kích thước (1,9x2,4)cm chứa chất tinh thể màu trắng; Thu trên tay phải của Th 01(một) chiếc điện thoại Masstel màu đen-xám, lắp sim số 0368.086.661; Thu trong túi quần phía sau bên phải Th đang mặc 01 (một) ví giả da màu đen, bên trong có 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Lê Văn Đ và số tiền 160.000 đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định số 587/GĐMT ngày 25/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu của Lê Văn Th là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,268 gam. Hoàn lại 0,21 gam.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Văn Th khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy Heroine từ năm 2006 sau đó bị cáo đi tù và đi cai nghiện bắt buộc đến tháng 7/2018 bị cáo nghiện ma túy đá cho đến nay. Bị cáo và H là bạn bè xã hội quen biết nhau khoảng vài năm nay và đã nhờ H mua hộ 200.000 đồng ma túy đá để sử dụng vào cuối năm 2018. Khoảng 22 giờ ngày 22/6/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên bị cáo gọi điện cho H nhờ mua hộ 500.000 đồng ma túy đá để sử dụng. H đồng ý và bảo bị cáo đến cây xăng phường CĐ gặp H. Bị cáo gọi điện cho anh S xe ôm đón và chở bị cáo đến chỗ gặp H. Sau khi gặp, H bảo bị cáo đi cùng xe ôm lên khu vực phía sau khách sạn Hải Yến thuộc phường CTr, thành phố D, đi đến nơi H bảo bị cáo chờ ở đầu ngõ còn H vào mua ma túy. Tiền mua ma túy bị cáo đã đưa cho H từ khi gặp nhau. Khoảng 20 phút sau H đi ra và đưa cho bị cáo 01 (một) túi ni lon bên trong có chứa chất ma túy đá. Bị cáo bảo anh S chở đến nhà nghỉ MA để tìm chỗ sử dụng còn H đi xe ôm về nhà. Khi đến cửa nhà nghỉ MA thì bị Công an kiểm tra nên bị cáo tự nguyện giao nộp 01 túi ma túy đá đang cầm ở tay phải. Ngoài ra Công an còn thu của bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen xám lắp sim số 0368086661, 01(một) ví giả da màu đen bên trong có 01(một) giấy phép lái xe mang tên Lê Văn Đ và số tiền 160.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng). Chiếc điện thoại bị thu giữ bị cáo đã dùng vào việc liên lạc nhờ mua ma túy. Nguồn tiền mua ma túy và tiền bị thu giữ là của bị cáo do lao động mà có; Chiếc ví giả da màu đen là của bị cáo; Giấy phép lái xe là của bố bị cáo. Những tài sản trên không liên quan đến việc bị cáo phạm tội. Bị cáo yêu cầu được nhận lại số tiền 160.000 đồng; 01 giấy phép lái xe và 01 chiếc ví giả da màu đen. Việc bị cáo thuê anh S chở đi gặp H cũng như đi mua ma túy anh S không biết. Bị cáo thấy Viện kiểm sát truy tố, Toà án xét xử ngày hôm nay là đúng người đúng tội.

Những người làm chứng tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra:

Anh Nguyễn Ngọc S khai: Vào khoảng 21 giờ 20 phút ngày 22/6/2019 anh nhận được điện thoại của Th bảo đến đón và chở Thành đến cây xăng CĐ vì là khách quen hay đi xe ôm nên Th có số máy của anh. Khi đến cây xăng CĐ, Th gặp một người đàn ông đang đứng chờ sau đó hai người lên xe rồi bảo anh chở đến khu vực phía sau khách sạn Hải Yến. Khi đến nơi người đàn ông xuống xe và bảo Th chờ sau đó người đàn ông đi vào ngõ. Khoảng 20 phút sau anh thấy anh ta đi ra nói chuyện với Th rồi Th lên xe bảo anh chở đến nhà nghỉ MA còn người đàn ông kia đi đâu anh không biết. Khi xe đến cửa nhà nghỉ MA, Công an kiểm tra Th giao cho Công an một túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, và khai đó là ma túy đá. Ngoài ra Công an còn thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen xám, 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 giấy phép lái xe mang tên Lê Văn Đ và 160.000 đồng. Sau đó anh được mời về trụ sở Công an làm việc. Anh không biết Th thuê anh chở đi mua ma túy.

Anh Đào Trọng T khai: Khoảng 22 giờ ngày 22/6/2019, anh có việc đi qua khu vực gần nhà nghỉ MA thấy Công an đang kiểm tra một người đàn ông. Do tò mò anh đến gần xem thì thấy người đàn ông khai tên là Lê Văn Th và đưa từ tay phải 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng Th khai đó là ma túy đá. Công an còn thu giữ của Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen xám, 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 giấy phép lái xe mang tên Lê Văn Đ và 160.000 đồng. Công an đã mời anh và một số người khác chứng kiến về trụ sở Công an để làm việc.

Tại bản cáo trạng số: 136/CT-VKS-CP, ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Lê Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Văn Th từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản ảnh vật chứng; Kết luận giám định số 587/GĐMT ngày 25/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Quảng Ninh; Biên bản kiểm tra điện thoại. Với các chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ ngày 22/6/2019, tại tại tổ 5, khu 6C, phường CTr, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh, Lê Văn Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,268 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự của địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma túy khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Đối với đối tượng tên H, Th khai đã bán ma túy cho Th, nhưng do không biết lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở làm rõ.

Đối với anh Nguyễn Ngọc S được Thành thuê chở đi mua ma túy nhưng anh S không biết nên không đề cập xử lý.

[3] Xét nhân thân tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự nên không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng bị cáo có nhân thân xấu. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo có thể bị phạt tiền, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Về Vật chứng: Đối với số ma túy Methamphetamine, sau giám định hoàn lại mẫu vật trong phong bì niêm phong số 587/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, đây là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc điện thoại di động Masstel màu đen xám liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; 01(một) giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn Đ; 01 ví giả da màu đen và số tiền 160.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, Khoản 1 Điều 249; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Th 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 22/6/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, Khoản 2, Điểm a, Khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy Methamphetamine trong 01 phong bì niêm phong số 578/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Masstel màu đen- xám.

- Trả lại bị cáo: 01(một) ví giả da màu đen; 01(một) giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn Đ và số tiền 160.000đ (một trăm sáu mươi nghìn đồng). Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 01//BB-THA, ngày 01/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn Th phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:130/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về