Bản án 131/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 131/2017/HSST NGÀY 01/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 8 năm 2017, tạị Nhà văn hoá khu dân cư số 09, phường Hải Tân, thành phố Hải Dương. Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý 108/2017/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:

Phạm Đình Đ, sinh 1995.

ĐKHKTT: Thôn 3, xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương. Nơi ở: Số 25/20 N, phường T, thành phố Hải Dương. Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá: 12/12. Con ông phạm Đình S và bà Nguyễn Thị N.

Tiền án: Chưa.

- Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 189 ngày 24/6/2016

Công an thành phố Hải Dương phạt 1.000.000đ về hành vi mua dâm (Đ nộp 06/7/2016).

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 335 ngày 06/10/2016 Công an thành phố Hải Dương phạt Đ 1.000.000đ về hành vi mua dâm (Đ nộp 07/10/2016).

- Quyết định xử phạt hành chính số 268 ngày 12/11/2016 Công an thành phố Hải Dương phạt Đ 500.000đ về hành vi đánh bạc (Đ nộp 01/12/2016).

- Tạm giữ ngày 15/3/2017.

- Tạm giam: Ngày 23/3/2017 tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Đình Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 12/3/2017, Phạm Đình Đ đi đến khu vực Quán Toan, thành phố Hải Phòng mua được 14 viên ma tuý tổng hợp (dạng thuốc lắc) và 02 túi ma tuý (dạng Ke) với số tiền 3.000.000đ của một thanh niên (không rõ tên, địa chỉ). khoảng 00 giờ 15 phút ngày 15/3/2017, Đ mang số ma tuý mua được thuê xe tacxi do anh Trương Văn Bình ĐKHKTT: Xuân Áng, Thanh Xuân, Thanh Hà, Hải Dương điều khiển chở đến quán Karaoke Ru by ở đường gom An Định, khu 3 phường Nhị Châu, thành phố Hải Dương để sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 20 phút cùng ngày, khi anh Bình dừng xe trước cửa quán, Đ xuống xe thì bị lực lượng phòng Cảnh sát hình sự (pc45) Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ của Đ 02 túi nilon màu trắng (01 túi chứa 10 viên nén, 01 túi chứa 04 viên nén, các viên nén đều có đặc điểm hình tròn màu nâu nhạt, đường kính 07mm/viên và có một mặtđóng chìm chữ "K"; 02 túi nilon màu trắng kích thước 3x2,5cm/túi bên trong đều chứa chất bột màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 1301/C54(TT2) ngày 31/3/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát, kết luận:

- Chất bột màu trắng trong 02 (hai) túi nilon gửi giám định có tổng trọng lượng 1,367 gam, đều có Ketamine.

- Các viên nén hình trụ tròn, màu nâu nhạt, trên một mặt mỗi viên đều in chìm chữ "K" trong 02 (Hai) túi nilon gửi giám định có tổng trọng lượng 3,430 gam, đều có MDMA.MDMA nằm trong danh mục I , STT 22: Ketamine nằm trong danh mụcIII, số thứ tự 35, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Ngày 28/6/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương có Quyết định trưng cầu giám định số 32/2017/QĐ-TCGĐ Viện khoa học hình sự -Tổng cục Cảnh sát giám định hàm lượng chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 272/C54(TT2) ngày 07/7/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát kết luận: Hàm lượng Ketamine trung bình trong mỗi chất bột màu trắng gửi giám địn là 61,6%.

Hàm lượng MDMA trung bình trong mỗi chất các viên nén hình trụ tròn màu nâu nhạt, trên một mặt mỗi viên đều in chìm chữ “K”gửi giám địhn là 32,4%%.

Tại bản cáo trạng số 115/VKS -HS ngày 19/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Phạm Đình Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghịHĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Đình Đ. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Đình Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Phạm Đình Đ từ 18 tháng đến 21 tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/3/2017.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41BLHS; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: Lượng ma túy hoàn lại sau giám định hàm lượng và các vỏ bao gói. Toàn bộ đối tượng giám định hoàn lại trong phong bì niêm phong số 272/C54 (TT2) của Viện khoa học hình sự- Tổng cục Cảnh sát.

- Án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ. ý kiến của kiểm sát viên, lời khai nhận của bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà, phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 15/3/2017, tại trước của quán Karaok Ruby ở đường gom An Định, khu 3, phường Nhị Châu, thành phố Hải Dương. Phạm Đình Đ đang cất giấu trái phép 4,797 gam chất ma túy ở thể rắn (gồm 1,367 gam Ketamine; 3,430 gam MDMA). Hàm lượng Ketamine trong mẫu chất bột màu trắng gửi giám định 61,6% x1,367 gam Ketamine = 0,842072 gam, hàm lượng MDMA trong mẫu các viên nén hình trụ tròn màu nâu nhạt, trên một mặt mỗi viên đều in chìm chữ "K" gửi giám định 32,4% x 3,430 gam MDMA= 1,11132 gam MDMA. Tổng tinh chất 1,953392 gam để sử dụng thì bị Phòng Cảnh sát hình sự (PC45) Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Hành vi bị cáo cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 BLHS, nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an ninh xã hội. Việc cất giữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân là hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc đối với những đối tượng trên và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức, sức khỏe con người, bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Môi giới mãi dâm, đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Do vậy cần có mức án nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo pháp luật.

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm. HĐXX xem xét hướng có lợi cho bị cáo theo Nghị Quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt từ một năm đến năm năm, làm căn cứ xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về vật chứng:

Lượng Ketamine, MDMA hoàn lại sau giám định hàm lượng và các vỏ bao gói. Toàn bộ đối tượng giám định hoàn lại trong phong bì niêm phong số272/C54(TT2), Viện khoa học hình sự- Tổng cục Cảnh sát thay thế phong bì 1301/C54 (TT2), là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 41BLHS; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS.

- Anh Trương Văn Bình không biết Đ cất giấu trái phép ma túy để sử dụng; quá trình điều tra không làm rõ được người bán trái phép chất ma tuý cho Đ không có căn cứ xử lý.

+ Án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Vì lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Đình Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Đình Đ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/3/2017.

- Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 272/C54 (TT2) của Tổng Cục Cảnh sát

- Viện khoa học hình sự bên trong là mẫu vật hoàn lại sau giám định hàm lượng, có 05 dấu niêm phong của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và 05 chữ ký Đặng Thị Thủy thay thế cho phong bì số 1301/C54 (TT2).

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 13/7/2017).

Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2017/HSST ngày 01/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:131/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về