Bản án 13/2017/HS-ST ngày 08/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 13/2017/HS-ST NGÀY 08/09/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2017, tại Hội trường khu phố 2, thị trấn Cam Lộ, huyện Cam Lộ, Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2017/HSST ngày 10/8/2017 đối với bị cáo:

Trần Văn L; tên gọi khác: Bộp, sinh năm 1990 tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu phố 11, phường 5, Đông Hà, Quảng Trị; trình độ văn hoá: 8/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trần Văn G (đã chết), con bà Đặng Thị Mỹ A, sinh năm 1963, trú tại: Khu phố 11, phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; chưa có vợ con;

Tiền sự: có 01 tiền sự: ngày 28/02/2017, bị công an xã Tân Long, huyện H Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Tiền án: 01 tiền án: ngày 24/6/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tổng hợp hình phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo của bản án ngày 25/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2015.

Về nhân thân:

Ngày 25/5/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Ngày 16/3/2009, công an thành phố Đông Hà xử phạt 200.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngày 06/5/2009, công an thành phố Đông Hà xử phạt 300.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngày 23/11/2016, bị công an thành phố Đông Hà khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” và đến ngày 31/5/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 15/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã xét xử tại bản án số 11/2017/HSPT, giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên phạt bị cáo 24 tháng tù.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/5/2017 tại nhà tạm giữ công an huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên toà.

Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị Kiều N, sinh năm 1968, trú tại: Thôn Tân Xuân 2, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Thanh Q, trú tại: Khu phố 2, phường 3, Đông Hà, Quảng Trị, vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 11/4/2017, trong lúc đang ở nhà của mình tại khu phố 11, phường 5, Đông Hà, Quảng Trị, Trần Văn L dùng điện thoại nhắn tin rủ Nguyễn Văn H, sinh ngày 06/6/1999 (là bạn của L) ở cùng khu phố đi tắm bể bơi ở khách sạn Đông Trường Sơn. L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74F8 – 0259 chở Nguyễn Văn H đi đến bể bơi khách sạn Đông Trường Sơn nhưng hôm đó khách sạn đóng cửa nên L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và bàn bạc với H rủ lên Cam Lộ tìm quán tạp hóa sơ hở để trộm căp tài sản. Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, khi đi qua quán tạp hóa của bà Nguyễn Thị Kiều N ở thôn TX 2, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ phát hiện cửa quán mở nhưng không có người trông giữ nên H nói L quay xe lại để vào quán trộm tài sản. L điều khiển xe quay lại và dừng sát mép đường nhựa phía trước quán để cảnh giới, H đi thẳng vào góc phía bên trái quán tạp hóa (H từ ngoài vào) nơi chị N để nhiều hộp bia chồng lên nhau. H cúi người xuống bưng 03 hộp bia lon (gồm 02 hộp bia Hà Nội và 01 hộp bia Sài Gòn) rồi đi ra vị trí L đợi sẵn. H bỏ 03 hộp bia lên yên xe sát lưng của L rồi ngồi phía sau để giữ bia. L điều khiển xe chở H cùng ba hộp bia vừa trộm được theo Quốc lộ 9 về thành phố Đông Hà.

Sau khi phát hiện có người vào quán trộm cắp tài sản, anh Nguyễn Ngọc S và anh Nguyễn Trường T (là người cùng thôn với chị N) dùng 02 xe mô tô rượt đuổi phía sau xe mô tô do L điều khiển. Khi đến địa phận thôn TT, xã Cam Hiếu, nhìn lui phía sau có người rượt đuổi và hô hoán, Trần Văn L bảo H mở bia ra ném ra đường để cản trở việc truy đuổi. H ném lần lượt hết toàn bộ số lon bia đựng trong ba hộp bia xuống đường, sau đó ném mũ bảo hiểm và gói bột mì có sẵn trên xe (L mua để làm bánh) về phía anh S và anh T nhằm ngăn cản sự rượt đuổi nhưng anh S và anh T vẫn bám theo sau xe mô tô của L. Sợ bị bắt giữ, nên Nguyễn Văn H mượn điện thoại di động của L gọi điện cho Hoàng Ngọc D (là bạn ở cùng khu phố) với mục đích hỗ trợ ngăn cản người truy đuổi nhưng không liên lạc được.

Khi L điều khiển xe mô tô đến địa phận khu phố 11, phường 5, Đông Hà thì bị ngã xe, nên anh S, anh T đuổi kịp và bắt giữ được. Ngay lúc đó, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn T (hai anh ruột của H) và Hoàng Ngọc D đang ngồi chơi tại 01 quán gần đường thấy có người rượt đuổi H nên đã chạy đến dùng gậy đánh vào người anh S và anh T gây thương tích. Trần Văn L và Nguyễn Văn H lợi dụng tình hình đó bỏ chạy.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 16/KL – ĐGTS ngày 09/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cam Lộ kết luận: 01 hộp bia Sài Gòn Lager giá 207.000 đồng; 02 hộp bia Hà Nội có giá 380.000 đồng. Tổng cộng: 587.000 đồng (Năm trăm tám mươi bảy nghìn đồng).

Tại Bản Cáo trạng số 13/QĐ/KSĐT – KT ngày 08/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trần Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên truy tố bị cáo về tội danh trên và đề nghị Tòa án áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm g, o khoản 1 Điều 48; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 – 12 tháng tù. Về vật chứng: số vật chứng võ lon bia, võ hộp đựng lon bia tịch thu tiêu hũy; chiếc xe mô tô Dream II biển số 74F8 – 0259 trả lại cho anh Lê Thanh Q.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Về tội danh: Bị cáo Trần Văn L đã có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính nhưng ngày 11/4/2017, bị cáo cùng với Nguyễn Văn H (sinh ngày 06/6/1999) đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 03 két bia của chị Nguyễn Thị Kiều N với giá trị tài sản 587.000 đồng. Mặc dù tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo có 01 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Trần Văn L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự trị an trên địa bàn, tạo tâm lý bất an cho người dân trong việc bảo vệ tài sản.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo L có 01 tiền án ngày 24/6/2010 với mức án 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị và tổng hợp hình phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo của bản án ngày 25/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 587.000 đồng nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; sau khi chiếm đoạt tài sản bị truy đuổi, bị cáo cùng với Nguyễn Văn H dùng lon bia, mũ bảo hiểm, bột mỳ để ném trở lại nhằm cản trở việc đuổi bắt nên thuộc trường hợp “có hành động hung hãn nhằm trốn tránh tội phạm” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bồi thường toàn bộ thiệt hại, thiệt hại gây ra không lớn, là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cùng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo và trên cơ sở nhân thân của bị cáo cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để răn đe, cải tạo bị cáo.

Đối với Nguyễn Văn H do chưa có tiền án, tiền sự khi thực hiện hành vi chiếm đoạt dưới hai triệu đồng nên không cấu thành tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ không truy tố Nguyễn Văn H là đúng pháp luật.

Đối với hành vi của Hoàng Ngọc D, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn T đánh anh Nguyễn Ngọc S và Nguyễn Trường T (là người đuổi bắt bị cáo L). Qúa trình điều tra xác định thời điểm anh S, các đối tượng D, P, T chỉ biết anh S, T truy đuổi em trai là Nguyễn Văn H nên đánh lại S, T. Hành vi này của D, P, T không có sự liên hệ từ trước với bị cáo L và Nguyễn Văn H và vụ việc đang được cơ quan có thẩm quyền giải quyết nên không xem xét trong vụ án này.

Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình giải quyết vụ án, bị cáo Trần Văn L đã bồi thường toàn bộ tài sản đã chiếm đoạt 587.000 đồng; chị Nguyễn Thị Kiều N không yêu cầu gì thêm. Bị cáo cũng không yêu cầu Nguyễn Văn H bồi hoàn lại số tiền đã bồi thường cho chị N nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng: Qúa trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô hiệu Dream II biển số 74F8 – 0259 đăng ký quyền sở hữu là anh Lê Cảnh H. Chiếc xe này anh H đã bán lại cho anh Lê Thanh Q; mẹ của bị cáo L là bà Đặng Thị Mỹ A mượn của anh Lê Thanh Q; bị cáo lấy xe làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nhưng  bà A và anh Q không biết. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại chiếc xe cho anh Lê Thanh Q.

Đối với 14 võ lon bia SaiGon Lager và 12 lon bia Hà Nội đã bị vỡ; 01 hộp đựng bia SaiGon và 01 hộp đựng bia Hà Nội đã bị rách. Tất cả những vật chứng này đều không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí:  Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn L (Bộp) phạm tội "Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46, điểm g, o khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn L: 10 (mười) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 24 tháng tùvề tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 11/2017/HSPT ngày 15/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 34 (ba mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 23/5/2017.

2. Về vật chứng:

2.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên trả lại chiếc xe mô tô Dream II biển số 74F8 – 0259, số máy C100ME – 0019680 cho anh Lê Thanh Q.

2.2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 14 (mười bốn) võ lon bia SaiGon Lager thể tích 330ml và 12 (mười hai) võ lon bia Hà Nội, thể tích 330ml đã bị vỡ; 01 (một) võ hộp đựng bia SaiGon và 01 võ hộp đựng bia Hà Nội đã bị rách. Tất cả những vật chứng nêu trên có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/8/2017.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.  Người  có  quyền  lợi  nghĩa  vụ  liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HS-ST ngày 08/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lộ - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về