Bản án 13/2017/HS-ST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC SƠN-TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 13/2017/HS-ST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Q mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2017/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo: Hoàng Văn M; sinh 26/02/1976; sinh, trú quán tại: xóm C, xã Q, huyện T, tỉnh C; nghề nghiệp: phụ xe khách; trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Tày, Quốc tịch: Việt Nam, Tôn giáo: không; con ông: Hoàng Hữu P (SN: 1952) và bà Hoàng Thị N (SN: 1959); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 20/3/2017, hiện đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hoàng Văn M bị Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Q  truy tố về hành vi phạm tội như sau: Lúc 20 giờ 45 phút ngày 19/3/2017, tại đường liên thôn, đoạn qua thôn 1, xã P, tiến hành kiểm tra hành chính, lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện P phát hiện Hoàng Văn M tay trái đang cầm 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, trong túi áo (phía trước, bên ngực trái) M đang mặc có 01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất bột màu trắng. M khai nhận đây là heroin, mục đích tàng trữ để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn M và thu giữ tang vật gồm: 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có 02 sim số 0966 715 206 và 0913 183 402.

Kết luận giám định số: 180/C54 (Đ4) ngày 24/3/2017 của Phân viện khoa học hình sự tại TP. Đà Nẵng kết luận: chất rắn màu trắng thu giữ của Hoàng Văn Minh có trọng lượng 0,148 gam; có heroin; trọng lượng heroin có trong 0,148 gam mẫu là 0,111 gam. Quá trình điều tra xác định: Hoàng Văn M sử dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2012. Lúc 08h00 ngày 19/3/2017, M đi phụ xe khách cho nhà xe Hoàng Vy xuất phát từ tỉnh Bình Phước đi tỉnh Cao Bằng. Khoảng 20h cùng ngày, xe khách Hoàng Vy đến và dừng lại ở một quán cơm tại thôn 5, xã P cho khách ăn cơm tối. Tại đây, Hoàng Văn M làm quen với một thanh niên tên T (không rõ lai lịch) và hỏi T chỗ mua ma túy để sử dụng. T cho M  số điện thoại di động của người đàn ông tên N trú tại thôn 1, xã P, qua liên lạc N đồng ý bán heroin cho M. T dùng xe máy chở M đến nhà ông N rồi bỏ đi. Hoàng Văn M vào nhà của ông N mua 01 gói heroin với số tiền 800.000 đồng, cất gói heroin vào trong túi áo đang mặc, đi bộ theo đường liên thôn để về quán cơm nơi xe khách Hoàng Vy đang dừng thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Tại Bản cáo trạng số: 12/CT- VKS ngày 26/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn M tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều194 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn M và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự (năm 1999); điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7 Bộ hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội xử phạt bị cáo Hoàng Văn M từ 12 đến 18 tháng tù. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng vụ án. Bị cáo đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa Hoàng Văn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Hoàng Văn M sử dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2012. Lúc 08h00 ngày 19/3/2017, M đi phụ xe khách cho nhà xe Hoàng Vy xuất phát từ tỉnh Bình Phước đi tỉnh Cao Bằng. Khoảng 20h cùng ngày, xe khách Hoàng Vy đến và dừng lại ở một quán cơm tại thôn 5, xã P cho khách ăn cơm tối. Tại đây, Hoàng Văn M làm quen với một thanh niên tên T (không rõ lai lịch) và hỏi T chỗ mua ma túy để sử dụng. T cho M số điện thoại di động của người đàn ông tên Ngọc trú tại thôn 1, xã P, qua liên lạc N đồng ý bán heroin cho M. T dùng xe máy chở M đến nhà ông N rồi bỏ đi. Hoàng Văn M vào nhà của ông N mua 01 gói heroin với số tiền 800.000 đồng, cất gói heroin vào trong túi áo đang mặc, đi bộ theo đường liên thôn để về quán cơm nơi xe khách Hoàng Vy đang dừng thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Văn M phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn đã truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý. Những người sử dụng ma túy sẽ ảnh hưởng đến tinh thần lẫn thể chất, có thể bị lây nhiễm căn bệnh HIV/AIDS là căn bệnh gây chết người chưa có thuốc đặc trị. Các tội phạm về ma túy xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước ta về các chất ma túy; xâm phạm trật tự an toàn xã hội; xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc….nên Nhà nước ta nghiêm cấm các hoạt động tàng trữ, sử dụng, mua bán, vận chuyển….trái phép chất ma túy. Thế nhưng, bị cáo Hoàng Văn M là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, do đó để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua của người đàn ông tên N 01 gói Heroin trị giá 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng). Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo không những đã làm gia tăng tệ nạn ma túy và làm ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, nên xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội để bị cáo có thời gian cải tạo cai nghiện trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm  2015 có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Mặc dù, Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, nhưng theo qui định tại khoản 3 Điều 7 Bộ hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội qui định về áp dụng các điều khoản của Bộ luật hình sự theo hướng có lợi cho người phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc xử phạt bị cáo Hoàng Văn M mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo phù hợp với chính sách pháp luật hình sự mới, nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Song xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải. Bị cáo là người dân tộc thiểu số nên sự nhận thức pháp luật còn hạn chế. Vì vậy, cần áp dụng điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Ngoài hình phạt chính bị cáo Hoàng Văn M còn phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn không có việc làm ổn định, nên không xử phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên N đã bán heroin cho Hoàng Văn M, xác minh được tại thôn 1 xã P có người tên Phan Trọng N, sinh năm 1953, HKTT: Thạch B, huyện L, tỉnh H, tạm trú tại thôn 1, xã P, nghề nghiệp: buôn bán. Tuy nhiên sau khi xảy ra sự việc, Phan Trọng N đã đi khỏi địa phương, do vậy không lấy được lời khai nên chưa có cơ sở để xử lý. Đối với người thanh niên tên T đã cho M số điện thoại của ông N và dùng xe máy chở M đi mua heroin, do không rõ nhân thân, lai lịch nên quá trình điều tra không xác minh được.

- Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Công an huyện Phước Sơn đã thu giữ của Hoàng Văn M: 0,148 gam; có heroin; trọng lượng heroin có trong 0,148 gam mẫu là 0,111 gam và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có 02 sim số 0966 715 206 và 0913 183 402.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu 0,055 gam heroin (còn lại sau giám định) để tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại động hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có 02 sim số 0966 715 206 và 0913 183 402 do M dùng liên lạc mua ma túy nên tịch thu để sung công quỹ nhà nước.

Án phí hình sự sơ thẩm: áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm  p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự (năm 1999); Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Hoàng Văn M: 12 (mƣời hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 20/3/2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu của Hoàng Văn M: 0,055 gam heroin (giám định còn lại) để tiêu hủy. Tuyên tịch thu để sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng), bên trong có 02 sim số 0966 715 206 và 0913 183 402. Vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Sơn đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/6/2017.

- Án phí HSST bị cáo phải chịu: 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HS-ST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về