Bản án 13/2018/DS-ST ngày 26/04/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 13/2018/DS-ST NGÀY 26/04/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26/4/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự sơ thẩm thụ lý số 36/2018/TLST-DS ngày 22/02/2018 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXX-ST ngày 04/4/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Văn Phú T, sinh năm 1960;

Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

Bị đơn: Bà Võ Thị H, sinh năm 1930;

Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Dương N, theo giấy ủy quyền ngày 21/7/2017. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

+ Bà Dương Thị T, sinh năm 1974; Có mặt.

+ Bà Dương Thị Y, sinh năm 1971;

+ Bà Dương Thi N, sinh năm 1960;

+ Bà Dương Thị M, sinh năm 1950;

Đồng địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện hợp pháp của bà T, bà Y, bà N, bà M: Ông Dương N, theo giấy ủy quyền ngày 02/8/2017. Có mặt.

+ Bà Dương Thị K, sinh năm 1972;

Địa chỉ: Thôn N, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện hợp pháp của bà Tờ: Ông Dương N, theo giấy ủy quyền ngày 02/8/2017. Có mặt.

+ Ông Dương N, sinh năm 1968;

Nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Chỗ ở hiện nay: Khu phố P, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Văn Phú T trình bày: Nguyên nguồn gốc thửa đất số 313 thuộc tờ bản đồ 25 có diện tích đất 350,2 m2 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đường đi và đất ông Văn Phú H1, phía Bắc giáp đất nhà ông Văn Phú H2, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên là thửa đất mà ông Văn Phú T được nhận tặng cho từ cha đẻ là ông Văn Phú H. Sau khi nhận tặng cho vợ chồng ông Văn Phú T, bà Nguyễn Thị N đăng ký kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện Đông Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 035529 vào ngày 24/10/2013. Trước khi kê khai để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 1994 vợ chồng ông T, bà N xây nhà ở trên đất và có xác định ranh giới diện tích đất với thửa đất hiện do bà Võ Thị H đứng tên chủ sử dụng là hàng rào tre. Quá trình kê khai xác định ranh giới để xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà Võ Thị H không có tranh chấp. Sau khi vợ chồng ông T, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tiến hành xây dựng tường rào theo ranh giới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể từ móng nhà đầu xông vợ chồng ông T kéo theo chiều ngang về hướng Đông giáp đất nhà bà H là 0.38 m (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiều ngang được xác định từ tọa độ 4,5) và chiều dài theo hướng Nam đến giáp đất đường đi là 12,40m (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiều dài được xác định từ tọa độ 4,7). Tuy nhiên, bà H ngăn cản không cho vợ chồng ông T, bà N xây tường rào và cho rằng vợ chồng ông T, bà N lấn chiếm đất. Quá trình hòa giải ông T yêu cầu bà H trả lại diện tích đất để xây tường rào là từ móng nhà đầu xông vợ chồng ông T kéo theo chiều ngang về hướng Đông giáp đất nhà bà H là 0,20 m và chiều dài theo hướng Nam đến giáp đất đường đi là 12,40m, đoạn chiều ngang giáp đường đi lấy cột mốc trụ bê tông giáp đường đi qua giáp đất bà H về hướng Đông là 7cm.

Tuy nhiên, tại phiên tòa ông T yêu cầu Tòa án xem xét buộc bà H trả lại một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ 25 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên để đủ diện tích mà vợ chồng ông T, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 350.2 m2, diện tích cụ thể theo xác định của Tòa án.

Bị đơn bà Võ Thị H do ông Dương N làm đại diện theo ủy quyền trình bày:

Nguồn gốc thửa đất 144, tờ bản đồ 327D diện tích 510 m2 là của hộ ông Dương M (đã chết) và bà H khai hoang và xây dựng nhà ở trước năm 1975. Đến năm 1993 đăng ký kê khai vào hồ sơ địa chính tại quyển 02 trang 128, sổ mục kê quyển 01. Sau đó sử dụng ổn định đến năm 2013 diện tích nói trên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất cho bà Võ Thị H với diện tích 614,6 m2 thuộc số thửa 305, tờ bản đồ 25 có giới cận phía Đông giáp đất ông Lê H, phía Tây giáp đất nhà ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất nhà ông Trần T, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

Năm 1994 vợ chồng ông T, bà N xây dựng nhà và xây hết diện tích đất lấy móng nhà về hướng Đông giáp đất nhà bà H là ranh giới để xác định ranh giới, phía đầu xông nhà vợ chồng ông T, bà N theo chiều ngang về hướng Đông giáp đất nhà bà H là 0,10 m và chiều dài theo hướng Nam đến giáp đất đường đi theo hướng thẳng là 12,40m (vị trí cột mốc là trụ bê tông giáp đường đi).

Tại phiên tòa, đại diện của bà H cho rằng thời điểm vợ chồng ông T kê khai xác định ranh giới làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà H không biết nên diện tích đất cấp cho vợ chồng ông T, bà N là không đúng, tuy nhiên bà H không yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho vợ chồng ông T, bà N. Bà H không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày:

Quá trình kê khai xác định ranh giới để xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà Võ Thị H không có tranh chấp. Vợ chồng bà N, ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 350.2 m2. Bà N thống nhất theo sự trình bày của ông T.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị T trình bày:

Thời điểm vợ chồng ông T, bà N kê khai xác định ranh giới làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà H và các thành viên trong hộ gia đình không biết nên việc vợ chồng ông T tự ý xác định ranh giới diện tích đất là không đúng, tuy nhiên không yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho vợ chồng ông T, bà N nhưng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Dương Thị Y, bà Dương Thị N, bà Dương Thị M;bà Dương Thị K (do ông Dương N làm đại diện hợp pháp); ông Dương N trình bày:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hoà tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

+ Về chấp hành pháp luật tố tụng dân sự: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử, Thẩm phán đã xác định đúng mối quan hệ tranh chấp, xác định đúng tư cách pháp lý của các đương sự, chấp hành đúng trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử, thư ký cũng đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định.

+ Về nội dung: Việc ông Văn Phú T khởi kiện yêu cầu bà Võ Thị H trả lại một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ 25 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên để đủ diện tích mà vợ chồng ông T, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Phú T. Về án phí và chi phí định giá bà Võ Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận và đề xuất ý kiến giải quyết vụ án của các bên đương sự, ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét đơn khởi kiện của ông Văn Phú T yêu cầu bà Võ Thị H trả lại quyền sử dụng đất, yêu cầu này phù hợp với quy định của pháp luật, do đó xác định đây là quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất, căn cứ vào Điều 155 Bộ luật Dân sự trường hợp này không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

[2] Về nội dung:

Ông Văn Phú T khởi kiện yêu cầu bà H trả lại một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ 25 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên để đủ diện tích mà vợ chồng ông T, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 350.2 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 035529 được Ủy ban nhân dân huyện Đông Hòa ngày 24/10/2013. Bà H cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, bà N là không đúng tuy nhiên không có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ thì diện tích đất bà Võ Thị H được cấp giấy chứng nhận là 614,6 m2 nhưng theo kết quả đo vẽ của Hội đồng định giá xác định diện tích đất của bà H có tăng lên là 618,5 m2 tức tăng 3,9 m2 nhưng không có căn cứ chứng minh diện tích tăng so với diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Văn Phú T khởi kiện yêu cầu bà Võ Thị H trả lại một phần diện tích đất thuộc thửa đất số 313, tờ bản đồ 25 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi tọa lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, khi kiểm tra hiện trạng, định giá đất ông T xác định vị trí tranh chấp là 4,9 m2 nhưng tại phiên tòa ông T xác định lại yêu cầu khởi kiện là chỉ đòi đủ diện tích đất mà vợ chồng ông T, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 350.2 m2. Xét thấy vợ chồng ông T được Ủy ban nhân dân huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 350.2 m2 là hợp pháp nhưng hiện tại ông T, bà N đang sử dụng diện tích 347,7 m2, và phần yêu cầu của ông T tại phiên tòa được xác định lại ranh giới để đủ diện tích đã được cấp là có căn cứ nên cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Phú T, buộc bà Võ Thị H phải trả lại diện tích đất là 2,5 m2 có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên cụ thể là cạnh ABEF (F trùng với số hiệu 14) tương ứng tổng diện tích đất là 350.2 m2 vòng: 1-2-3-A-B-E-14 (trùng với điểm F) -15-16-17-18-19-20-21-22-23-24-25-1 (có sơ đồ hiện trạng kèm theo).

[3] Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Võ Thị H phải chịu án phí không giá ngạch do phải trả lại quyền sử dụng đất là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[4] Về chi phí định giá: Tổng chi phí cho việc định giá là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) số tiền này bà Võ Thị H phải chịu, tuy nhiên ông Văn Phú T đã nộp tạm ứng đủ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nên bà Võ Thị H phải hoàn trả lại cho ông Văn Phú T 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 166, Điều 170 Luật Đất đai năm 2013; Điều 115, Điều 165, Điều 175, Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 24, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Phú T:

Buộc bà Võ Thị H trả lại cho ông Văn Phú T diện tích đất là 2,5m2, có giới cận phía Đông giáp đất bà Võ Thị H, phía Tây giáp đất ông Văn Phú T, phía Bắc giáp đất bà Võ Thị H, phía Nam giáp đường đi toạ lạc tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, cụ thể là cạnh ABEF (F trùng với số hiệu 14) (có sơ đồ hiện trạng kèm theo).

2. Về án phí: Bị đơn bà Võ Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho nguyên đơn ông Văn Phú T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại Biên lai thu tiền số 0003658 ngày 05/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.

3. Về chi phí định giá tài sản: Bà Võ Thị H phải chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) do ông Văn Phú T đã nộp tạm ứng 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nên buộc bà Võ Thị H phải hoàn trả lại cho ông Văn Phú T 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Ðiều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành xong.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

452
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/DS-ST ngày 26/04/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:13/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về