Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 20 tháng 8 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2018/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 về việc “Không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị G, sinh năm: 1966.

Địa chỉ: Tổ 3, phường T, thị xã G, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Anh Đinh Thế M, sinh năm 1960.

Địa chỉ: Tổ 3, phường T, thị xã G, tỉnh Đắk Nông.

(Các đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị G trình bày:

Chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1992 đến nay chưa đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn vì bất đồng quan điểm sống. Hiện tại chị G và anh M không sống chung với nhau. Chị G xét thấy tình cảm không còn, nên yêu cầu Tòa án không công nhận chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M là vợ chồng. Chị G và anh M có 01 con chung là Đinh Thị Thanh T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2003. Chị G có nguyện vọng giao cháu T cho anh M được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi, chị G không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Về án phí: Chị G tự nguyện nộp toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đinh Thế M trình bày:

Anh M đồng ý với lời khai của chị G về thời gian chung sống, tình trạng hôn nhân. Anh M cũng yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng và đồng ý trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Đinh Thị Thanh T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2003 cho đến khi đủ 18 tuổi và không yêu cầu chị G cấp dưỡng nuôi con chung. Anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, đồng ý với ý kiến của chị G về án phí.

Nguyện vọng của cháu Đinh Thị Thanh T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2003 là

được ở với bố Đinh Thế M khi Tòa án giải quyết không công nhận bố Đinh Thế M và mẹ Vũ Thị G là vợ chồng.

Chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của những người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm là tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14; Điều 15, các điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị G. Không công nhận chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M là vợ chồng; về con chung: Giao con chung là Đinh Thị Thanh T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2003 cho anh Đinh Thế M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi, chị G không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Chị G và anh M không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh  chấp: Chị Vũ Thị G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M nên quan hệ pháp luật giải quyết vụ án là "Không công nhận quan hệ vợ chồng". Bị đơn anh Đinh Thế M đang thường trú tại tổ 3, phường T, thị xã G, tỉnh Đắk Nông, nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa theo quy định tại khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị G và anh M đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, căn cứ Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị G và anh M.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị G, Hội đồng xét xử thấy rằng: [2.1] Về quan  hệ hôn nhân:  Chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1992 và có 01 người con chung. Quá trình sống chung, chị G và anh M không có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, mặc dù có đầy đủ điều kiện kết hôn, mặt khác Nhà nước có chính sách khuyến khích đăng ký kết hôn, nhưng chị G và anh M vẫn không chấp hành là vi phạm khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1…Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…”.

Trong quá trình chung sống giữa chị G và anh M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tình cảm giữa chị G và anh M không còn, hiện tại anh, chị không chung sống với nhau. Nay chị G yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận vợ chồng giữa chị G và anh M. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm giữa chị G và anh M thực sự không còn và anh chị không có nguyện vọng thực hiện đăng ký kết hôn để tiếp tục cuộc sống vợ chồng. Như vậy, yêu cầu của chị G là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị G và anh M có con chung là Đinh Thị Thanh T, sinh ngày 08 tháng 4 năm 2003. Chị G và anh M đã thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung: Giao con chung là Đinh Thị Thanh T cho anh Đinh Thế M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Xét thấy sự thỏa thuận này là hoàn toàn tự nguyện và đúng pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của cháu Đinh Thị Thanh T nên cần chấp nhận.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng  nuôi con chung: Anh Đinh Thế M không yêu cầu chị Vũ Thị G cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị Vũ Thị G phải chịu tiền án dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng  cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị G.

- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Vũ Thị G và anh Đinh Thế M là vợ chồng.

- Về con chung: Giao cháu Đinh Thị Thanh T, ngày 08 tháng 4 năm 2003 cho anh Đinh Thế M nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu T đủ 18 (mười tám) tuổi.

Chị Vũ Thị G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân gia đình; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đinh Thế M không yêu cầu chị Vũ Thị G cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc thay đổi nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung được quy định tại Điều 107, Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

- Về tài sản chung và nợ chung: Tòa án không giải quyết.

- Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng điểm b khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), chị Vũ Thị G phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân gia đình được khấu trừ vào số tiền chị G đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0004105 ngày 15/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K, tỉnh Đắk Nông.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:13/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về