Bản án 13/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH L

BẢN ÁN 13/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 2 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Đức T - Sinh năm 1979 tại huyện T, tỉnh L.

Nơi cư trú: Khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh L; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Đức B và bà: Bùi Thị K; có vợ là: Lê Hồng N sinh năm 1979; bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 2001 con nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số: 50/2009/HSST, ngày 29/04/2009 Tòa án nhân dân tỉnh L áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p, o khoản 1 Điều 46, Điều 47 BLHS tuyên phạt Hoàng Đức T 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 26/4/2013, Hoàng Đức T ra tù, trở về địa phương hiện đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 16/10/2017, tạm giam từ ngày 19/10/2017; ngày 04/01/2018 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hiện đang ở tại khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh L “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa  vụ liên quan đến vụ án: Lê Hồng N - Sinh năm: 1979. Trú tại: Khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh L “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 16/10/2017, Hoàng Đức T sinh năm 1979, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24B1 – 069.16 nhãn hiệu HONDA từ nhà ở khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh L sang huyện S, tỉnh L tìm mua Hêrôin về sử dụng. Khi đến địa phận thị trấn S, huyện S, tỉnh L, T vào nhà một người dân tộc Mông tên C, khi T vào nhà thì thấy C đang ở nhà, T nhờ C đi mua hộ T ít hàng (tức là Hêrôin), C trả lời “Em ốm lắm, anh nhờ ai thì nhờ”, lúc này T nói tiếp “Anh ra đây chẳng quen biết ai, em cố đi mua hộ anh”, sau đó C đồng ý, T lấy trong túi áo ra 800.000 đồng đưa cho C và bảo “Em mua cho anh 700.000 đồng, còn 100.000 đồng trả tiền công cho em đi mua hộ anh”. C cầm tiền đi khoảng hai tiếng sau thì quay lại đưa cho T 01 gói Hêrôin được gói trong mảnh nilon màu đen. T bóc gói Hêrôin ra xem rồi gói lại bằng mảnh nilon màu xanh rồi cho vào trong miệng ngậm để nếu gặp Công an thì nuốt vào trong bụng rồi T điều khiển xe mô tô quay về nhà. Khi  về đến khu vực Bệnh viện đa khoa huyện T thì T bị lực lượng Công an huyện T kiểm tra hành chính nên T đã nuốt gói Hêrôin vào bụng, ngay sau đó lực lượng Công an huyện T đưa T vào Trung tâm y tế huyện T để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong dạ dày của T có 01 gói nilon màu xanh, theo T khai nhận là hêrôin, T đã tự giác uống nhiều nước để nôn gói Hêrôin ra giao nộp cho lực lượng Công an.

Tại biên bản mở niêm phong hồi 19 giờ 45 phút ngày 16/10/2017, của Cơ quan CSĐT - Công an huyện T xác định gói Hêrôin thu giữ của của Hoàng Đức T nôn ra có trọng lượng là 1,77 gam, Cơ quan điều tra đã trích 0,15 gam trong tổng số 1,77 gam để trưng cầu giám định.

Tại kết luận giám định số 07 ngày 17/11/2017, của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L Kết luận: Chất bột khô, màu trắng đục, vón cục thu giữ của Hoàng Đức T gửi đến giám định là Hêrôin.

Trong quá trình điều tra bị cáo Hoàng Đức T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 01/KSĐT-MT, ngày 28/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Hoàng Đức T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Về hình phạt: Đề nghị áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, vì bị cáo không có tài sản gì đáng giá và đảm nhiệm chức vụ gì.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 1,62 gam Hêrôin.

- Trả lại cho gia đình bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 24B1-06916 nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Hoàng Đức T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 16/10/2017 bị cáo Hoàng Đức T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24B1 – 069.16 nhãn hiệu HONDA từ nhà ở khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh L sang huyện S, tỉnh L tìm mua Hêrôin về sử dụng. T đưa 800.000 đồng cho một người tên là C nhờ mua hộ Hêrôin. Sau khi mua được Hêrôin quay về huyện T. Khi  về đến khu vực Bệnh viện đa khoa huyện T thì T bị lực lượng Công an huyện T kiểm tra hành chính nên T đã nuốt gói Hêrôin vào bụng, ngay sau đó lực lượng Công an huyện T đưa T vào Trung tâm y tế huyện T để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong dạ dày của T có 01 gói nilon màu xanh, theo T khai nhận là hêrôin, T đã tự giác uống nhiều nước để nôn gói Hêrôin ra giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói hêrôin có trọng lượng 1,77 gam. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội:"Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự. Nội dung bản cáo trạng truy tố, căn cứ đề nghị của Viện kiểm sát huyện T đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng qui định pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ điều kiện nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, gây tổn hại cho sức khỏe, nhân phẩm của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Nhà nước ta đang đấu tranh quyết liệt để loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt nghiêm khắc đối với những người nào có các hành vi liên quan đến ma túy. Xét cần phải có một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo và cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Song sau khi phạm tội bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, HĐXX xét thấy do khung hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 cao hơn so với khung hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; áp dụng qui định có lợi cho người phạm tội qui định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015. HĐXX áp dụng cho bị cáo mức hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, nghiện chất ma túy, không có tài sản gì đáng giá nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo qui định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc số Hêrôin, Hoàng Đức T khai nhờ một người tên là C không rõ nhân thân lai lịch mua hộ với giá 700.000 đồng. Quá trình điều tra không xác định được nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 24B1-06916 nhãn hiệu HONDA bị cáo dùng làm phương tiện đi mua Hêrôin, quá trình điều tra xác định chiếc xe này là tài sản chung của gia đình bị cáo, việc bị cáo lấy xe đi mua ma túy vợ bị cáo là chị Lê Hồng N không biết, cần trả lại cho gia đình bị cáo.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không  có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về vật chứng còn lại của vụ án gồm: 1,62 gam Hêrôin xác định là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Áp dụng điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Hoàng Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015; điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T 01 (một) năm tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/10/2017 đến ngày 04/01/2018 là 80 ngày (02 tháng 20 ngày). Bị cáo còn phải chấp hành 09 (chín) tháng 10 (mười) ngày tù. Thời hạn từ được tính từ ngày bị cáo đi thụ hình.

Về tang vật:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư làm bằng bì thư Công an huyện T bên trong đựng 1,62 gam Hêrôin. Vật chứng được niêm phong theo qui định.

- Trả lại cho gia đình bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 24B1 -06916 nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen.

Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh L.

Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về