Bản án 13/2018/HS-ST ngày 24/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TAND THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 13/2018/HS-ST NGÀY 24/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2017/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý N (tên gọi khác Tèo) (có mặt)

Sinh năm: 1990, tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Nơi ĐKTT: Số nhà 889/10/11 đường N, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở: Số nhà 889/10/11 đường N, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp: Không.

Trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam. 

Con ông Lý Như Ng và bà Nguyễn Thị H.

Vợ: Phạm Ngọc T và con có 02 người, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 10/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 30/11/2016, chấp hành xong hình phạt, hiện chưa xóa án tích.

Bị bắt tạm giam ngày: 13/9/2017.

Tại ngoại: Không.

- Bị hại: Trần Văn T, sinh năm: 1959 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số nhà 466 đường N, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Lý Thị Hồng L, sinh năm: 1997 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số nhà 889/10/11 đường N, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Hữu Ng, sinh năm: 1981 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số nhà B1-C3 đường P, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

+ Thiều Thị Thảo, sinh năm: 1986 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số nhà Lô 16/14 khu tái định cư phường Q, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

+ Nguyễn Hoàng L1, sinh năm: 1989 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền nêny nảy sinhy định đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Vào khoảng 01 giờ ngày 09/9/2017,y đi bộ theo các tuyến đường trên địa bàn phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tìm tài sản lấy trộm. Khi đi đến nhà của anh Trần Văn T, ở số 466 đường Nguyễn Chí Thanh, phường Rạch Sỏi,y thấy nhà đang sửa chữa và không có khóa cửa, quan sát xung quanh thấy không có người,y liền đột nhập vào nhà anh T (bút lục số 41, 45). Khi vào được trong, thấy anh T đã ngủ và phía sau có đậu một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại SH mode, biển số 65L1-199.24,y đi đến lấy trộm xe dẫn ra ngoài và đi về hướng đường Mai Thị Hồng Hạnh. Sau đó,y thuê xe ôm đẩy chiếc xe 65L1-199.24 về giấu trong một ngôi nhà không có người ở, thuộc phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch Giá. Tại đây,y dùng tay móc trong cóp xe lấy được 200.000 đồng và một giấy đăng ký xe mang tên Thiều Thị Thảo (xe của anh T nhờ em dâu là Thiều Thị Thảo đứng tên). Sau đó,y đem chiếc xe 65L1-199.24 đến tiệm sửa xe của anh Nguễn Hữu Nghĩa, ở số B1-C3 đường Phạm Hùng, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch Giá, để thay ổ khóa. Do không có tiền nêny đã mượn của em ruột là Lý Thị Hồng L 4.000.000 đồng để trả tiền ổ khóa cho anh Nghĩa. Sau khi thay ổ khóa,y đem xe của anh T đi cầm nhiều nơi nhưng không được. Đến ngày 13/9/2017, khi đang điều khiển xe 65L1-199.24 đến nhà bạn ở tổ 16, khu phố Vĩnh Phát, phường Vĩnh Hiệp, thìy bị Công an thành phố Rạch Giá bắt khẩn cấp vày đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình. Ngày 21/9/2017, Lý Nhưy bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Rạch Giá, khởi tố, tạm giam để điều tra (bút lục số 42, 43, 47, 50, 62).

Bị cáo Lý Nhưy đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lý Nhưy đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 125/KL-TCKH ngày 20/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Rạch Giá xác định (bút lục số 31): 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu trắng nâu biển số 65L1-199.24 trị giá 48.000.000 đồng

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cóy kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá tài sản nêu trên.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Trần Văn T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác. Đối với số tiền 4.000.000 đồng bị cáo đã mượn của chị Lý Thị Hồng L để sửa ổ khoá xe thì chị L không yêu cầu bị cáo trả lại (bút lục số 48).

* Theo bản cáo trạng số: 261/CT.KSĐT ngày 16/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Lý Nhưy về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lý Nhưy mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về phần dân sự: Anh T đã nhận lại tài sản; chị Lý Thị Hồng L không yêu cầu bị cáo trả lại tiền mượn sữa xe 4.000.000 đồng; anh T và chị L không yêu cầu bồi thường gì khác; nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cóy kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Lý Nhưy đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 09/9/2017, tại nhà số 466 đường Nguyễn Chí Thanh, phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, lợi dụng nhà đang sữa chữa, không khoá cửa và anh T đang ngủ nên Lý Nhưy đã lén lút lấy trộm của anh T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu trắng nâu biển số 65L1-199.24 (trị giá qua định giá là 48.000.000 đồng); lấy được xe bị cáo kiểm tra trong cóp xe có số tiền 200.000 đồng và 01 giấy đăng ký xe mang tên Thiều Thị Thảo (chiếc xe của anh T nhưng anh T nhờ chị Thảo đứng tên dùm). Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 48.200.000 đồng; sau khi lấy

được xe bị cáo mượn số tiền 4.000.000 đồng của chị Lý Thị Hồng L để thay ổ khoá xe (chị L không biết chiếc xe do bị cáo phạm tội mà có), sau đó bị cáo lấy xe đem đi cầm nhiều nơi nhưng không cầm được. Đến ngày 13/9/2017, khi đang điều khiển xe biển số 65L1-199.24 đến nhà bạn ở phường Vĩnh Hiệp thìy bị Công an thành phố Rạch Giá bắt khẩn cấp vày đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Lý Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáoy thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải bỏ ra công sức lao động chân chính, nên bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cốy trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống gia đình người bị hại, làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Do đó, cần xử bị cáo một mức hình phạt thật tương xứng đối với tội trạng của bị cáo và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định; nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân T; đồng thời cũng nhằm ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội.

 [3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 10/8/2016 bị Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xử phạt 06 tháng tù, đến ngày 30/11/2016 chấp hành xong hình phạt, hiện chưa được xóa án tích là thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tài sản được thu hồi giao trả lại cho bị hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

 [5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [6] Về trách nhiệm dân sự: Anh T đã nhận lại tài sản; chị Lý Thị Hồng L không yêu cầu bị cáo trả lại tiền mượn sữa xe 4.000.000 đồng; anh T và chị L không yêu cầu bồi thường gì khác, nên miễn xét.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội ; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuyên bố: Lý Như

Phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Lý Nh  mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù; tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 13/9/2017) và tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì khác; nên miễn xét.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 13/2018/HS-ST ngày 24/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về