Bản án 13/2019/DS-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 13/2019/DS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2019/TLST-TCDS ngày 03 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C; địa chỉ: tòa nhà C, khu B, phường H, quận H, thành phố Hà Nội Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T - Chức vụ: Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng P - Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình. (Theo Quyết định số 1792/QĐ-NHCS ngày 09/6/2015)

Người được ủy quyền lại: Bà Trần Thị Thu N – Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q, tỉnh Quảng Bình ((theo Giấy ủy quyền số 273/NHCS-UQ) ngày 04/6/2019)

2. Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1976; địa chỉ: thôn K, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

Tại phiên tòa, bà Trần Thị Thu N có mặt, chị Trần Thị H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28/3/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam trình bày:

Ngày 17/5/2016, chị Trần Thị H thuộc đối tượng gia đình hộ nghèo đã vay tại Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q số tiền 12.000.000 đồng, lãi suất 0,75%/tháng, hạn trả cuối cùng ngày 17/05/2021 theo hợp đồng tín dụng số 6600000707374895. Đến nay chị H không thực hiện theo đúng cam kết về việc trả lãi đầy đủ, đúng hạn cho Ngân hàng. Ngân hàng C đã nhiều lần thông báo thu hồi lãi tồn đọng tuy nhiên chị H không chấp hành nghĩa vụ trả lãi đầy đủ, đúng hạn cho Ngân hàng C. Dư nợ hợp đồng tín dụng số 6600000707374895 của chị Trần Thị H đến ngày 17/9/2019 là: Nợ gốc: 12.000.000 đồng, nợ lãi 2.715.714. Tổng cộng: 14.715.714 đồng.

Ngoài ra ngày 16/8/2016 chị Trần Thị H còn vay tại Phòng giao dịch Ngân hàng C số tiền 48.000.000 đồng, lãi suất 0,55%/tháng, hạn trả cuối cùng ngày 17/8/2019 theo Hợp đồng tín dụng 6600000708177934. Đến nay chị H cũng không thực hiện theo đúng cam kết về việc trả lãi đầy đủ, đúng hạn theo thỏa thuận như trong Hợp đồng tín dụng cho Ngân hàng. Dư nợ hợp đồng tín dụng số 6600000708177934 của chị Trần Thị H đến ngày 23/7/2019 là: Nợ gốc: 48.000.000 đồng, nợ lãi: 7.774.019 đồng.

Để thu hồi vốn cho Nhà nước, đại diện cho Ngân hàng C đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị Trần Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền 70.489.832 đồng, trong đó nợ gốc 60.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/9/2019) là 10.489.832 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong tiền nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng, thông báo thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập, thông báo phiên họp và hòa giải nhiều lần cho chị H nhưng chị H không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại Ủy ban nhân dân xã C và kết quả cho thấy: sau khi nhận được các văn bản tố tụng từ Tòa án thì chính quyền địa phương đã cử cán bộ liên lạc giao đầy đủ cho phía gia đình chị H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng đã tuân theo pháp luật tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị H là đúng quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch không có kiến nghị đối với vụ án này.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn chị Trần Thị H phải trả nợ cho Ngân hàng C số tiền gốc và lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (17/9/2019) tổng cộng số tiền là 70.489.832 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 60.000.000 đồng, tiền nợ lãi là 10.489.832 đồng; buộc bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn chị Trần Thị H có nơi cư trú tại thôn K, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng chị Trần Thị H vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn chị Trần Thị H.

[2] Về nội dung tranh chấp, yêu cầu của đương sự:

Theo yêu cầu khởi kiện, lời trình bày của các đương sự và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xác định: Giữa Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện Q với chị Trần Thị H đã giao kết Hợp đồng tín dụng số 6600000707374895 ngày 17/5/2016 và Hợp đồng tín dụng 6600000708177934 ngày 16/8/2016. Theo các Hợp đồng tín dụng chị Trần Thị H đã vay tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Trạch số tiền 60.000.000 đồng. Trên cơ sở Hợp đồng ký kết, Ngân hàng đã giải ngân số tiền vay cho chị H vay như thỏa thuận. Như vậy, Hợp đồng tín dụng giữa hai bên có nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật, là hợp đồng hợp pháp nên phát sinh hiệu lực.

Theo các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thể hiện trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay chị Trần Thị H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng, vi phạm kỳ hạn thanh toán theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng đã ký kết.

Từ những nhận định trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C, buộc chị Trần Thị H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng C huyện Q số tiền nợ 70.489.832 đồng (bảy mươi triệu bốn trăm tám mươi chín nghìn tám trăm ba mươi hai đồng, trong đó nợ gốc 60.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/9/2019) là 10.489.832 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (17/9/2019), chị Trần Thị H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy chị Trần Thị H phải chịu toàn bộ án phí vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Xét xử vụ án vắng mặt bị đơn chị Trần Thị H.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng C về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” đối với bị đơn chị Trần Thị H.

Buộc chị Trần Thị H phải trả cho Ngân hàng C số tiền 70.489.832 đồng, trong đó nợ gốc 60.000.000 đồng và nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/9/2019) là 10.489.832 đồng.

“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 17/9/2019), chị Trần Thị H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

2. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 3.524.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 17/9/2019). Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại UBND xã C, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/DS-ST ngày 17/09/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:13/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về