Bản án 13/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở UBND xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử  sơ thẩm lưu  động  công khai vụ  án hình  sự thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Trần Văn T (tên gọi khác: B), sinh năm: 1994 tại huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Ngọc T; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: chưa bị xử lý hành chính và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-01-2019 cho đến nay. có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 04-01-2019, tại khu vực ấp Tân Lập, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Bến Cầu phối hợp với Công an xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Trần Văn T đangbán trái phép chất ma tuý cho Nguyễn Văn M nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ 01 bịch nylon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi ma tuý) và một số vật chứng khác để xử lý. Khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh phát hiện, thu giữ 02 bịch nylon màu trắng, hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi ma tuý) và một số vật chứng khác.

Quá trình điều tra, T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 03-01-2019, T đến khu vực ấp Thuận Tây, xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh gặp một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) để mua 02 bịch ma tuý với giá 3.200.000 đồng đem về cất giấu trong phòng trọ tại ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh để sử dụng và bán cho người khác. Đến 11 giờ ngày 04-01-2019, Nguyễn Văn M gọi điện cho T hỏi mua 01 bịch ma tuý với giá 200.000 đồng, T đồng ý và hẹn M đến khu vực đường vào quán cà phê Mê Hi Cô thuộc ấp Tân Lập, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giao ma tuý, khi T đang bán ma tuý cho M thì bị bắt quả tang.

Ngoài lần bắt quả tang, T còn khai nhận đã bán ma tuý 03 lần cho M, mỗi lần bán 01 bịch ma tuý với giá 200.000 đồng vào các ngày 29-12-2018; 01-01-2019 và02-01-2019 tại khu vực xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Kết luận giám định số: 19/ KL-KTHS ngày 07-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng, hàn kín, ký hiệu M1 là chất ma tuý tên gọi Methamphetamine có khối lượng: 0,0197 gam. Chất tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon màu trắng, hàn kín, ký hiệu M2 là chất ma tuý tên gọi Methamphetamine có khối lượng: 3,2418 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: có bảng thống kê kèm theo.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Văn T; Nguyễn Văn M và Trần Thị Bích L đã bị Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt vi phạm hành chính. Người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) bán ma túy cho T chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

Trần Văn T không có tài sản nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, cùng vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 19/CT-KSĐT ngày 14 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Văn T từ 08 (tám) năm tù đến 09 (chín) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử lý vật chứng theo qui định pháp luật.

Bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm tái hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Lúc 11 giờ 10 phút ngày 04-01-2019, tại khu vực ấp Tân Lập, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, bị cáo Trần Văn T đang bán 01 (một) bịch mua túy cho Nguyễn Văn M thì bị bắt quả tang. Khám xét nơi ở của bị cáo T tại ấp X, xã Y thu giữ 02 (hai) bịch nylon màu trắng, hàn kín, bên trong chứa ma tuý. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T còn khai nhận mua ma túy của người tên Hoàng (không rõ lai lịch) nhiều lần, lần gần nhất là ngày 03-01-2019 với số tiền 3.200.000 đồng để sử dụng và đã bán ma túy cho Nguyễn Văn M vào các ngày 29-12-2018, 01-01-2019 và 02-01-2019, mỗi lần01 bịch ma tuý với giá 200.000 đồng. Tại Kết luận giám định số: 19/ KL-KTHS ngày 07-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng ký hiệu M1 là ma tuý tên gọi Methamphetamine có khối lượng: 0,0197 gam. Chất tinh thể màu trắng bên trong 02 bịch nylon màu trắng, ký hiệu M2 là ma tuý tên gọi Methamphetamine có khối lượng: 3,2418 gam. Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với người khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu giữ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết việc sử dụng, mua bán trái phép các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền để mua ma túy sử dụng nên bị cáo không tuân thủ. Hành vi của bị cáo là trái pháp luật, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, làm băng hoại giống nòi và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khai báo các lần mua, bán ma túy trước đó mà chưa bị phát hiện là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hìnhsự sẽ được xem xét áp dụng.

[5] Trong quá trình giải quyết, bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột bị cáo T nộp Huy chương kháng chiến của bà Trần Thị A là cô ruột và Huy chương chiến công giải phóng của ông Trần Văn H là chú ruột của bị cáo T để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T bị cáo. Tuy nhiên, qua xem xét các tài liệu do bà Tập giao nộp thì không thuộc trường hợp được qui định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không có cơ sở áp dụng cho bị cáo T.

[6] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo T tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Văn T và Nguyễn Văn M, Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

[8] Đối với Trần Thị Bích L sử dụng ma túy chung với bị cáo T nhưng không biết bị cáo T mua, bán ma túy nên Công an Bến Cầu đã xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

[9] Người đàn ông tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ) bán ma túy cho bị cáo T chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

 [10] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong số 19/KL-KTHS (gói 2) có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh là ma túy tên gọi Methamphetamine nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chai nhựa màu trắng, nắp màu đỏ, thân chai làm bằng nhựa, bên trong có đoạn ống nhựa và 01 ống thủy tinh là dụng cụ sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG, màu bạc đã qua sử dụng, có nhiều vết trầy xướt, số Imel: 35331909357665/01 của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô không biển số; nhãn hiệu không xác định; loại xe nữ; dung tích xi lanh 107cm3; sơn màu nâu; số máy: CT100E1932492, số khung: VTTDCH033TT*010530, có nhiều vết trầy sướt là tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

- Số tiền Việt Nam 200.000 (hai trăm nghìn) đồng là tiền bị cáo bán ma túy mà có nên tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

[11] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trần Văn T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 01 năm 2019.

2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong số: 19/KL-KTHS có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh.

-  Tịch  thu,  sung  vào  ngân  sách  nhà  nước:  01  (một)  điện  thoại  di  động SAMSUNG, màu bạc, số Imel: 35331909357665/01; 01 (một) xe mô tô không biển số; nhãn hiệu không xác định; loại xe nữ; dung tích xi lanh 107cm3; sơn màu nâu; số máy: CT100E1932492, số khung: VTTDCH033TT*010530 và số tiền Việt Nam200.000 (hai trăm nghìn) đồng.(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11-4-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh)

3. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn T được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về