Bản án 13/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 08/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Trần Văn T; Sinh ngày 02 tháng 3 năm 1962 tại: Xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Tiền án, tiền sự: Không. Con ông Trần Văn A; Sinh năm 1934 và bà Trương Thị Thanh V (chết). Vợ là Nguyễn Thị L; Sinh năm 1965; Có 2 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 1995. Ngày 23/10/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam ra Lệnh tạm giữ bị can đối với Trần Văn T. Đến ngày 04/7/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam ra Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là nhân chứng: Nam.

+ Bùi Văn L; Sinh năm 1982; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng

+ Nguyễn Thanh S; Sinh năm 1965; Trú tại: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Đỗ Viết K; Sinh năm 1985; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Lê Văn B; Sinh năm 1978; Trú tại: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Lê Văn T; Sinh năm 1962; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Lê Văn N; Sinh năm 1982; Trú tại: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Đoàn Văn T; Sinh năm 1974; Trú tại: Xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Hồ Thị T; Sinh năm 1972; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Phan Công H; Sinh năm 1991; Trú tại: Xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Nguyễn Tấn T; Sinh năm 1985; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Tạ Quang D; Sinh năm 1962; Trú tại: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Trần Ngọc V; Sinh năm 1978; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Nguyễn Mậu V; Sinh năm 1977; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

+ Trần Văn Hà; Sinh năm 1979; Trú tại: Thôn V, xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam.

Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 23 giờ 30 phút ngày 24/6/2018, Cơ quan CSĐT (PC45) Công an tỉnh Quảng Nam lập biên bản phạm tội quả tang đối với Trần Văn T có hành vi tổ chức cho nhiều người chơi cá độ bóng đá tại nhà Tuấn.

Trong quá trình điều tra xác định được trong kỳ World Cup 2018, từ ngày 14/6/2018 đến 24/6/2018 Trần Văn T sử dụng số điện thoại 0986800 533 và số0915508034 của Tuấn để nhận tin nhắn và điện thoại của nhiều  người tham gia cá cược với Tuấn trong những trận bóng đá.

Sau đó Tuấn ghi vào tờ giấy để tổng hợp chuyển qua tin nhắn cho số điện thoại 0866 746 059 một người tên Quang Đ (chưa xác định được người này) để hưởng 10% trên tổng số tiền ghi cá cược tỉ số và 2% trên tổng số tiền ghi các kèo cá cược khác trong 19 trận bóng đá như sau:

1. Ngày 14/6/2018,trận Nga và A rập xê út, có L cá cược và số tiền đánh bạc 3.600.000 đồng với T.

2. Ngày 16/6/2018, trận Uruquay và Ai cập, có L cá cược: 500.000 đồng với T.

3. Ngày 19/6/2018, trận Nhật Bản và Colombia, có S cá cược số tiền: 150.000 đồng với T.

4. Ngày 19/6/2018, trận Anh và Tunisia có K cá cược và số tiền đánh bạc 340.000 đồng với T.

5. Ngày 20/6/2018, trận Nga và Ai Cập, có K cá cược số tiền: 100.000 đồng với T.

6. Ngày 20/6/2018, trận Uruguay và Arậpxêút, có B cá cược số tiền 290.000 đồng với T.

7. Ngày 21/6/2018, trận Tây Ban Nha và Iran; K cá cược tiền 100.000 đồng với T. 

8. Ngày 21/6/2018 trận Pháp và Peru; có V, cá cược số tiền: 300.000 đồng với  T.

9. Ngày 21/6/2018, trận Đan Mạch và Úc; có V cá cược: 1.200.000 đồng với T. 

10. Ngày 22/6/2018 trận Argantina và Crotia, có K, T và V cá cược: số tiền: 750.000 đồng với T.

11. Ngày 22/6/2018 trận Nigeri và Iceland, có T1, T2, H và T3 cá cược số tiền 1.660.000 đồng với T

12. Ngày 22/6/2018, trận Baraxin và Cocarica có H, V, T và H cá cược và thắng cược số tiền: 3.035.000 đồng với T

13. Ngày 23/6/2018 trận Bỉ và Tusinia, có T, H, T và H cá cược thắng cược số tiền 1.655.000 đồng với T.

14. Ngày 23/6/2018, trận Mexicô và Hàn Quốc, có T1, H, T2 và H cá cược 2.050.000 đồng với T.

15. Ngày 23/6/2018, trận Thụy Sĩ và Serbia, có T cá cược và thắng cược số tiền: 1.925.000 đồng với T.

16. Ngày 24/6/2018, Đức và Thủy Điển, H cá cược số tiền 620.000 đồng với T.

17. Ngày 24/6/2018, trận Anh và Panama, có Tá, Nhứt, Trin, D, V1, V2 và H cá cược và thắng cược số tiền 4.150.000 đồng với T.

18. Ngày 24/6/2018, trận Nhật Bản và Senegan, có V1, V2, H, D ,N và H cược số tiền: 4.010.000 đồng với T.

19. Ngày 25/6/2018, trận Ba Lan và Colombia, T1, V, T2, D cá cược bóng đá số tiền 2.200.000 đồng.

Sau khi tổng hợp nhiều người chơi cá độ trong từng trận bóng đá, T tổng hợp những người chơi cá cược tỉ lệ các kèo cá độ bóng đá theo số tiền đã cá cược của từng trận bóng đá chuyển tin nhắn qua cho người có tên “Quang Đ” số điện thoại 0866 746059 để hưởng hoa hồng. Tại biên bản ghi nội dung tin nhắn ngày 28/8/2018, trong điện thoại của T thể hiện như sau:

- Ngày 22/6/2018, T chuyển cho “Quang Đ” qua tin nhắn trận Baraxin và Cotarica số tiền 12.750.000 đồng;

+ Trận Nigeri và Iceland số tiền: 11.280.000 đồng;

- Ngày 23/6/2018 trận Thụy Sĩ và Serbia số tiền: 4.500.000 đồng;

+Trận Bỉ và Tunisia số tiền: 9.610.000 đồng;

+Trận Mexicô và Hàn Quốc số tiền: 10.170.000 đồng;

- Ngày 24/6/2018, trận Đức và Thủy Điển số tiền: 5.280.000 đồng;

+Trận Anh và Panama số tiền: 6.380.000 đồng;

+Trận Nhật Bản và Senegan số tiền 12.090.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 12/CT-VKS ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố Trần Văn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a, b Khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm a, b Khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Trần Văn T 12 đến 15 tháng tù.

- Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng, Điều 106, Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, tuyên:

- Tịch thu 01 điện thoại di động cảm ứng màu đỏ đen nhãn hiệu Asus của Trần Văn T.

- Tịch thu số tiền 3000.000 đồng (Ba triệu đồng) là số tiền Trần Văn T có được do tổ chức đánh bạc vào ngân sách Nhà nước.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.000.000 đồng của Trần Văn Tuấn để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Trả lại: 01 điện thoại di động Nokia X2 vỏ máy màu trắng bên trong có sim số Viettel cho Hồ Thị T; 01 điện thoai di động nhãn hiệu Nokia 105 bên trong có sim số 0905.917.123 cho Bùi Văn L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell bên trong có sim số 0918097720 cho Đỗ Viết K; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có sim số 0946 926.897 cho Nguyễn Mậu V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng Công an huyện Hiệp Đức, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Đức đã thực hiện hành vi, ban hành quyết định đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không có người tham gia tố tụng khiếu nại. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là nhân chứng tại phiên tòa nhưng cơ quan điều tra đã xác minh, làm việc trong quá trình điều tra và đã xử hành chính, nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra xác định được trong kỳ World Cup 2018, từ ngày 14/6/2018 đến 24/6/2018 Trần Văn T sử dụng số điện thoại 0986.800 533 và số 0915508034 của Tuấn để nhận tin nhắn và điện thoại 14 người tham gia cá cược với T trong những trận bóng đá tại nhà T. Tổng số tiền tham gia cá cược là 72.060.000 đồng và sau đó chuyễn toàn bộ số tiền đó cho Quang Đ, hưởng được số tiền 3.000.000 đồng. Hành vi trên của Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” được quy định tại điểm điểm a, điểm b khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với những người tham gia đánh bạc như: Bùi Văn L; Nguyễn Thanh S; Đỗ Viết K; Hồ Thị T; Trần Ngọc V; Nguyễn Mậu V; Lê Văn T; Lê Văn N; Lê Văn B; Nguyễn Tấn T; Phan Công H; Tạ Quang D; Trần Văn H; Đoàn Văn T, số tiền những lần đánh bạc trong các trận bóng đá chưa đủ định lượng nên không xử lý trách nhiệm hình sự. Cơ quan CSĐT Công an huyện Hiệp Đức xử phạt hành chính là phù hợp.

Đối với người có tên “Quang Đ” sử dụng số điện thoại 0866.746.059 là người mà Trần Văn T tổng hợp những người chơi đánh bạc sau đó chuyển tiền cho “Quang Đ” theo tin nhắn điện thoại để hưởng hoa hồng. Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã tiến hành xác minh và điều tra nhưng chưa xác định được, tiến hành điều tra xử lý sau.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo thật nghiêm để cải tạo, giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo có nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện, động cơ phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Đối chiếu với Nghị quyết số: 02/2018/NQ -HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự. Việc cho bị cáo được hưởng án treo không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Do bị cáo tuổi lớn không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động màu đỏ đen nhãn hiệu Asus của Trần Văn T. Bị cáo sử dụng điện thoại này để thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Tịch thu số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) là số tiền Trần Văn T có được do tổ chức đánh bạc vào ngân sách Nhà nước đã được Cơ quan điều tra tạm giữ.

- Trả lại:01 điện thoại di động Nokia X2 vỏ máy màu trắng bên trong có sim số Viettel cho Hồ Thị T; 01 điện thoai di động nhãn hiệu Nokia 105 bên trong có sim số 0905.917.123 cho Bùi Văn L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell bên trong có sim số 0918097720 cho Đỗ Viết K; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có sim số 0946 926.897 cho Nguyễn Mậu V.

[5] Về án phí trong vụ án hình sự: Bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[6] Tuyên quyền kháng cáo cho người tham gia tố tụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù được khấu trừ thời gian bị bắt tạm giữ là 09 (chín) ngày, thời hạn còn lại là 14 (Mười bốn) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 19/4/2019.

Giao bị cáo Trần Văn T cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu đỏ đen nhãn hiệu Asus và số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) của Trần Văn T.

- Trả lại:01 điện thoại di động Nokia X2 vỏ máy màu trắng bên trong có sim số Viettel cho Hồ Thị T; 01 điện thoai di động nhãn hiệu Nokia 105 bên trong có sim số 0905.917.123 cho Bùi Văn L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell bên trong có sim số 0918097720 cho Đỗ Viết K; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen bên trong có sim số 0946 926.897 cho Nguyễn Mậu V.

(Các vật chứng, tài sản trên có đặc điểm tại biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/3/2019 giữa Công an huyện Hiệp Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Đức, giấy chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 22/3/2019 của Công an huyện Hiệp Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Đức).

Về án phí trong vụ án hình sự: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Đức - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về