Bản án 13/2019/HSST ngày 22/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2019/HSST NGÀY 22/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 02 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP.B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2018/HSST ngày 28 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Hà S; tên gọi khác: Vi cá; sinh ngày 24 tháng 4 năm 2000; tại: Đồng Nai; HKTT: Tổ X, khu B, phường Y, TP.B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: khu nhà trọ Z, đường T, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; con ông: (không rõ cha là ai) và bà: Huỳnh Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 27/11/2018 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại:

Đỗ Thị Tuyết V, sinh năm 1957; nơi cư trú: Số nhà X, đường B, Phường L, TP.B, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

Vương Thị Thu L, sinh năm: 2001; nơi cư trú: Số nhà M, đường L, Phường Y, TP.B, tỉnh Lâm Đồng, (có mặt). Người đại diện: Ông Phạm Thế L - Ủy viên Ban thường vụ thành đoàn TP .B, (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Lê Trọng Nh, sinh năm 1997; nơi cư trú: Số nhà Z, đường H, phường L, TP.B, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

Lê Đình Gia H, sinh ngày 15/11/2003; nơi cư trú: Số nhà N, đường H, phường L, TP .B, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật của cháu H: Bà Trần Thị Thanh Th, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số nhà V, đường H, phường L, TP.B, tỉnh Lâm Đồng, là mẹ ruột cháu H, (vắng mặt).

Trần Nguyễn Gia L, sinh ngày 14/5/2004; Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thụy Thùy Tr, (là mẹ ruột); cùng trú tại: Tổ X, Phường Y, TP.B, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào ngày 07/8/2018 và ngày 12/8/2018 Huỳnh Hà S đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ sáng ngày 07/8/2018, Huỳnh Hà S và Trần Nguyễn Gia L cùng hai đối tượng Gi và L (không rõ lai lịch) rủ nhau cùng đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. Khi đi bộ qua tiệm bánh mỳ M, địa chỉ: Số X, đường Ng, Phường I, TP.B do chị Bùi Thị Tuyết H làm chủ, phát hiện thấy cửa sắt của tiệm có lỗ hổng phía dưới nên L chui vào trong để lấy trộm bánh mỳ, còn S, Gi, L đứng ngoài cảnh giới. Sau đó, L đưa hai bịch bánh mỳ sandwich cho Gi và L cầm đi ra bờ hồ B trước. Khi Gi và L đi khỏi thì L nói với S trong nhà còn có điện thoại và tiền nên L và S bàn nhau tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. L chui vào trong lấy trộm được 01 điện thoại di động Samsung J2 màu nâu vàng, 01 ví đựng tiền kiểu nữ, màu xanh đen, bên trong có 01 xấp tiền với tổng số tiền 1.000.000 đồng của chị Vương Thị Thu L là nhân viên bán bánh mỳ và lấy được số tiền 200.000 đồng trong ngăn kéo tủ bánh mỳ của chị H. Sau đó, L cầm bóp tiền và toàn bộ giấy tờ trong bóp để lại tiệm bánh mỳ, số tiền 1.200.000 đồng lấy được bỏ trong túi quần của S. Đến 09 giờ ngày 07/8/2018, S và L đem bán điện thoại cho Lê Trọng Nh được 300.000 đồng. Số tiền có được từ việc trộm cắp S và L đã tiêu xài cá nhân hết.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Hội đồng định giá thành phố B số 78 ngày 04/9/2018 và số 90 ngày 25/9/2018 xác định: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J2, màu nâu vàng trị giá 1.000.000đ (một triệu đồng); 02 bịch bánh mỳ sandwich trị giá 40.000đ (bốn mươi ngàn đồng); 01 ví đựng tiền kích thước 2cm x 5cm x 20cm, màu xanh đen trị giá 30.000đ (ba mươi ngàn đồng). Như vậy, tổng giá trị tài sản do S và L chiếm đoạt được trong vụ trộm cắp này là 2.270.000 đồng (hai triệu hai trăm bảy mươi ngàn đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 12/8/2018, S rủ L đến nhà chị Đỗ Thị Tuyết V, tại địa chỉ số X đường B, phường L, TP.B để trộm cắp tài sản. S và L thấy cửa mở và có người đang nằm trên ghế xem ti vi quay lưng ra ngoài không để ý nên S bảo L vào trong lấy trộm tài sản còn S đứng ngoài cảnh giới. L bỏ dép ngoài thềm đi vào trong lấy trộm được 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy J7 màu đen. L đi đôi dép cao su, loại dép xỏ ngón màu đen của nhà chị V về và để lại đôi dép xốp màu trắng của mình lại. L và S bỏ chiếc điện thoại vào bao tay và bịch nilon cất ở góc chợ. Đến ngày 13/8/2018 cả hai mang điện thoại lấy được đến cửa hàng V để mở mật khẩu. Đến khoảng 18 giờ ngày 14/8/2018 S gặp Lê Đình Gia H, HKTT: Hẻm M đường H, phường L, TP.B và thỏa thuận bán lại chiếc điện thoại đang sửa ở cửa hàng V. H đồng ý mua lại chiếc điện thoại đó với giá 200.000 và nhận lấy biên nhận sửa chữa điện thoại của cửa hàng V. Số tiền có được từ việc bán điện thoại S và L đã tiêu xài cá nhân hết.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng số 78/KL-HĐĐG ngày 04/9/2018 của hội đồng định giá thành phố B xác định 01 chiếc điện thoại Sam sung galaxy J7, màu đen trị giá là 2.520.000 (hai triệu năm trăm hai mươi ngàn đồng).

Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an TP .B đã tạm giữ 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu đen; 01 điện thoại di động Sam sung J2 màu nâu vàng và 01 ví đựng tiền màu xanh đen; 01 đôi dép màu trắng, dạng tông lào, có 02 quai, bằng xốp. Còn đôi dép L lấy được của chị V không thu hồi được do L đã bỏ đi khỏi địa phương. Sau khi định giá Cơ quan CSĐT Công an TP.B đã ra Quyết định xử lý vật chứng là trả lại 02 điện thoại di động, 01 ví da cho người bị hại.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Vương Thị Thu L đã nhận lại 01 điện thoại di động bị chiếm đoạt, chỉ yêu cầu được bồi thường số tiền 200.000 đồng là số tiền được chị H giao trách nhiệm quản lý. Anh Lê Trọng Nh yêu cầu bồi thường số tiền 300.000đ; cháu Lê Đình Gia H không yêu cầu bồi thường số tiền mua và sửa điện thoại. Chị Đỗ Thị Tuyết V đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu về dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Bị cáo nhận thức hành vi nêu trên là vi phạm pháp luật. Người bị hại chị Vương Thị Thu L không có yêu cầu về phần dân sự.

Bản Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân TP.B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Huỳnh Hà S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Trong thời gian ngày 07/8/2018 và ngày 12/8/2018, Huỳnh Hà S cùng Trần Nguyễn Gia L trộm cắp tài sản tại TP.B, Lâm Đồng của chị Vương Thị Thu L và chị Đỗ Thị Tuyết V với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.790.000 đồng (bốn triệu bảy trăm chín mươi ngàn đồng). Hành vi trên của Huỳnh Hà S là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo S từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP.B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP.B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Trong một thời gian ngắn Huỳnh Hà S cùng Trần Nguyễn Gia L thực hiện liên tục hai vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.790.000 đồng (bốn triệu bảy trăm chín mươi ngàn đồng). Trần Nguyễn Gia L khi thực hiện hành vi trộm cắp mới 14 tuổi 2 tháng 24 ngày, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nên ngày 31/10/2018 Cơ quan CSĐT Công an TP.B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L. Hành vi của bị cáo S đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội hai lần trở lên và xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại điểm g và điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét thấy: Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tính răn đe, giáo dục.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Vương Thị Thu L, chị Đỗ Thị Tuyết V, cháu Lê Đình Gia H không yêu cầu bồi thường nên không xem xét. Anh Lê Trọng Nh yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 300.000đ. Đây là yêu cầu chính đáng cần buộc bị cáo và mẹ của cháu L liên đới bồi thường. Tại phiên tòa bị cáo tự nguyện nhận trách nhiệm bồi thường thay phần của L cho anh Nh, đây là yêu cầu chính đáng cần chấp nhận, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Lê Trọng Nh số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

[4] Xử lý vật chứng: 01 đôi dép màu trắng, dạng tông lào, có 02 quai, bằng xốp xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Huỳnh Hà S phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g và điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Huỳnh Hà S 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2018.

2/ Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 589 Bộ luật Dân sự: Buộc Huỳnh Hà S bồi thường cho Anh Lê Trọng Nh số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải chịu số tiền lãi theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.

3/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép màu trắng, dạng tông lào, có 02 quai, bằng xốp (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.B với Chi cục Thi hành án dân sự TP.B).

4/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo, riêng những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HSST ngày 22/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về