Bản án 13/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:09/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn K (tên gọi khác D), sinh ngày 08 tháng 8 năm 1977 tại Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã Th1, huyện Th2, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1937; có vợ là Phạm Thị S, sinh năm 1978 và có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 09/2009/HSST ngày 26/02/2009 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 07 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2008, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/3/2014, thi hành xong án phí ngày 15/4/2010, thi hành xong hình phạt bổ sung ngày 18/4/2010. Bản án 73/2015/HSST ngày 18/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 02 năm 09 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/3/2018, thi hành xong án phí ngày 23/3/2016; bị bắt tạm giam từ ngày 24 tháng 10 năm 2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; có mặt.

2. Họ và tên: Vũ Đình M, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1984 tại Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã Th3, huyện Th2, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình C, sinh năm 1952 và bà Vũ Thị L, sinh năm 1953; có vợ là Bùi Thị H, sinh năm 1984 và có 02 con; tiền sự: Quyết định số 24/2016/QĐ-TA ngày 05/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 30 tháng 8 năm 2018 đến ngày 02 tháng 9 năm 2018 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; có mặt.

3. Họ và tên: Phạm Quang T, sinh ngày 27 tháng 5 năm 1980 tại Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã Th3, huyện Th2, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn G, sinh năm 1954 và bà Phạm Thị T1, sinh năm 1956; có vợ là Phạm Thị H, sinh năm 1982 và có 03 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 30 tháng 8 năm 2018 đến ngày 02 tháng 9 năm 2018 chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữCông an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Vũ Đình C, sinh năm 1952; nơi cư trú: Thôn H, xã Th3, huyện Th2, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

2. Chị Phạm Thị S, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn H, xã Th1, huyện Th2, tỉnh Thái Bình; có mặt

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Xuân Th, sinh năm 1962; nơi cư trú: Phường TP, thành phố TB, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

2. Anh Nguyễn Quang H, sinh năm 1983; nơi cư trú: Phường TH, thành phố TB, tỉnh Thái Bình; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 30 tháng 8 năm 2018, Phạm Quang T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda cup 81 màu xanh, biển số 19LA-4393 đến nhàNguyễn Văn K (tên gọi khác là D) là bạn của T ở cùng thôn chơi. Khi đến nhà K thì K không có nhà, T vào phòng ngủ của K ngồi chờ K về. Khoảng 5 phút sau có Vũ Đình M điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, biển số 17F3-5549 đến nhà K,M đi vào phòng ngủ của K ngồi chơi nói chuyện. Tại đây, T rủM và K cùng góp tiền đi thành phố TB mua ma túy là Hêrôin về sử dụng, M đồng ý góp 500.000 đồng và lấy 500.000 đồng đưa cho T. K góp 200.000 đồng và lấy 200.000 đồng đưa cho T. T góp 100.000 đồng thành 800.000 đồng. Sau đó M mượn xe máy nhãn hiệu Honda Dream, màu nâu, biển số 17F3 - 7287 của K để T và M đi thành phố TB mua ma túy, K đưa cho T 01 giấy đăng ký xe máy của mình và số tiền 40.000 đồng để đổ xăng. T dùng xe máy của K chở M lên thành phố TB, trên đường đi đã đổ xăng hết 40.000 đồng. T chở M đến khu vực thuộc phường Tr, thành phố TB, T gặp và mua của 01 người nam giới khoảng 35 tuổi, không biết tên, tuổi địa chỉ 800.000 đồng được 01 túi nilon trong suốt, bên trong có 04 gói nhỏ, bên ngoài các gói nhỏ đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, T đưa lại cho M cầm ở lòng bàn tay phải của M.

Sau đó T điều khiển xe máy chở M đi về nhà K, khi đến khu vực thôn G, xã Đ, thành phố TB thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Bình yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Lê Xuân Th và anh Nguyễn Quang H, M tự giác đưa từ lòng bàn tay phải ra giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt, bên trong có 04 gói nhỏ, bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong 04 gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, M khai đó là Hêrôin của M và T mua về để sử dụng chung, tổ công tác niêm phong vào trong phong bì. Sau đó tổ công tác yêu cầu T, M và mời người chứng kiến cùng đưa xe máy về trụ sở Công an xã Đông Mỹ, thành phố TB để làm việc. Kiểm tra người M và T, tổ công tác thu tại túi quần bên phải của M 01 điện thoại Iphone 4 màu đen; thu tại túi quần hậu bên phải của T 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô đều mang tên Phạm Quang T, 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Cảnh Ch và số tiền 20.000 đồng, thu tại túi quần bên trái của T 01 điện thoại Nokia X1, màu xanh đen ngoài ra không phát hiện thu giữ gì thêm. Kiểm tra xe máy do T điều khiển không phát hiện thu giữ gì. Sau đó tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Nguyễn Văn K ở nhà đợi T và M đi mua ma túy về sử dụng nhưng không thấy T và M về nên K đã bỏ đi khỏi địa phương. Ngày 22 tháng 10 năm 2018, K có mặt tại Cơ quan điều tra theo giấy triệu tập và khai nhận toàn bộ nội dung trên.

 Tại bản kết luận giám định số 333/KLGĐ-PC09 ngày 31 tháng 8 năm2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong 04 (bốn) gói thu của Vũ Đình M gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng chất bột màu trắng dạng cục trong từng gói lần lượt là: 0,1379 gam (không phẩy một nghìn ba trăm bảy mươi chín gam); 0,1396 gam (không phẩy một nghìn chín trăm ba mươi sáu gam); 0,1450 gam (không phẩy một nghìn bốn trăm năm mươi gam); 0,1341 gam (không phẩy một nghìn ba trăm bốn mươi mốt gam). Tổng khối lượng chất bột màu trắng dạng cục trong 04 (bốn) gói là: 0,5566 gam (không phẩy năm nghìn năm trăm sáu mươi sáu gam)”. Hoàn lại đối tượng giám định: 0,4904 gam (không phẩy bốn nghìn chín trăm linh tư gam) mẫu giám định thu của Vũ Đình M và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 333/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo T, M, K không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 07/CT-VKSTP ngày 27 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Quang T và Vũ Đình M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo như đã nêu trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Quang T, Vũ Đình M, Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

* Về hình phạt:

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) từ 05 năm đến 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24 tháng 10 năm 2018

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sungnăm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Đình M từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 30 tháng 8 tháng năm 2018

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Quang T từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 30 tháng 8 tháng năm 2018

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong bì ghi số 333/KLGĐ-PC09 .

- Trả lại bị cáo Vũ Đình M 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen đã cũ nhưng tiếp tục tạm quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại bị cáo Phạm Quang T 01 điện thoại di động Nokia X1 màu xanh đen đã cũ, 01 xe máy Honda-81 màu xanh, biển kiểm soát 19LA-4393 đã qua sử dụng; 01 ví giả da màu đen đã cũ, 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Phạm Quang T và số tiền 20.000 đồng. Tiếp tục quản lý T 01 điện thoại di động Nokia X1 màu xanh đen đã cũ và số tiền 20.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) 01 xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 17F3-7287 đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Cảnh Ch.

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã trả lại chiếc xe máy cho ông Vũ Đình C.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Các bị cáo T, M, K nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phốThái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại khu vực thôn G, xã Đ, thành phố TB, Phạm Quang T và Vũ Đình M có hành vi tàng trữ trái phép trên người của M 04 gói nhỏ ma túy loại Hêrôin, có tổng khối lượng là 0,5566 gam do T và M dùng số tiền 800.000 đồng mua được (trong đó T góp 100.000 đồng, M góp 500.000 đồng và Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) góp 200.000 đồng) để T, M, K (D) sử dụng chung, đã bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình bắt quả tang. Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau; Lời khai của các bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ ngày 30 tháng 8 năm 2018; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu lập hồi 18 giờ 35 phút ngày 30 tháng 8 năm 2018; bản Kết luận giám định số: 333/KLGĐ-PC09 ngày 31 tháng 8 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của người chứng kiến là anh Nguyễn Quang H, ông Lê Xuân Th; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại Bản án số 73/2015 ngày 18/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) được xác định là đã tái phạm đến nay bị cáo chưa được xóa án tích nhưng vẫn cố ý phạm tội, như vậy phải áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm để định khung hình phạt đối với bị cáo K (D). Theo quy định tại điểm c khoản 1, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

o) Tái phạm nguy hiểm

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Phạm Quang T, Vũ Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và hành vi của bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiêm của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm: Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm. Bị cáo Phạm Quang T là người khởi xướng việc góp tiền mua ma túy về sử dụng, góp số tiền 100.000 đồng để mua ma túy và chở M cùng đi mua ma túy, trực tiếp giao dịch mua bán ma túy; bị cáo Vũ Đình M là người góp số tiền 500.000 đồng để mua ma túy, góp nhiều tiền nhất trong các bị cáo và là người mượn xe máy của K (D) để T chở đi mua ma túy cùng T nên bị cáo M và bị cáo T giữ vai trò ngang nhau. Bị cáo K góp 200.000 đồng để mua ma túy, tuy không trực tiếp đi mua ma túy nhưng K cho M mượn xe máy của mình để M và T đi mua ma túy nên là đồng phạm trong vụ án.

[5] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo K (D) và bị cáo M là người có nhân thân xấu. Bị cáo M mới chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ngày 22 tháng 6 năm 2018 nhưng vẫn tái nghiện. Bị cáo K (D) có tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không chịu rèn luyện mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tình tiết tái phạm nguy hiểm của bị cáo K (D) đã được quy định để định khung hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo T không có tiền án tiền sự. Các bị cáo M, K (D), T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, hơn nữa bị cáo M có bố đẻ là bệnh binh, bị cáo T có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự. Do đó bị cáo M, T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo K (D) được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do các bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

[8.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Vũ Đình M 0,5566 gam (không phẩy năm nghìn năm trăm sáu mươi sáu gam) ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,4904 gam (không phẩy bốn nghìn chín trăm linh tư gam) trong phong bì niêm phong số 333/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.

[8.2] Cơ quan Công an thu giữ 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen đã cũ của bị cáo Vũ Đình M và 01 điện thoại di động Nokia X1 màu xanh đen đã cũ của bị cáo Phạm Quang T là tài sản hợp pháp của các bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

[8.3] Cơ quan Công an thu giữ của 01 ví giả da màu đen đã cũ, 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Phạm Quang T; 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Cảnh Ch và số tiền 20.000 đồng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

 [8.4] Cơ quan Công an thu giữ 01 xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 17F3-7287 là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn K và vợ là chị Phạm Thị S và 01 xe máy Honda 81 màu xanh, biển kiểm soát 19LA-4393 là tài sản hợp pháp của Phạm Quang T sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày nên cần trả lại.

 [8.5] Cơ quan Công an thu giữ 01 xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 17F3-5549 là tài sản hợp pháp của ông Vũ Đình C bố đẻ bị cáo Vũ Đình M. Ông C có đơn đề nghị xin lại tài sản nên ngày 26 tháng 9 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã trả lại chiếc xe máy cho ông C.

[9] Về nguồn gốc số ma túy: Các bị cáo Phạm Quang T và Vũ Đình M khai mua ma túy của một người nam giới khoảng 35 tuổi không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra xử lý.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phạm Quang T và Vũ Đình M

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D)

Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Quang T, Vũ Đình M và Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) 05 năm (năm năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2018

2.2. Xử phạt bị cáo Vũ Đình M 01 năm (một năm) 03 tháng (ba tháng) tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 8 năm 2018

2.3. Xử phạt bị cáo Phạm Quang T 01 năm (một năm) 03 tháng (ba tháng) tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 8 năm 2018

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong bì niêm phong bì ghi số 333/KLGĐ-PC09.

3.2. Trả lại bị cáo Vũ Đình M 01 điện thoại di động Iphone 4 màu đen đã cũ và bị cáo Phạm Quang T 01 điện thoại di động Nokia X1 màu xanh đen đã cũ, nhưng tiếp tục tạm quản lý để đảm bảo thi hành án.

3.3. Trả lại bị cáo Phạm Quang T 01 xe máy Honda-81 màu xanh, biển kiểm soát 19LA-4393 đã qua sử dụng; 01 ví giả da màu đen đã cũ, 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Phạm Quang T và số tiền20.000 đồng.

3.4. Trả lại bị cáo Nguyễn Văn K (tên gọi khác D) và chị Phạm Thị S 01 xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát 17F3-7287 đã qua sử dụng và 01 đăng ký xe máy mang tên Nguyễn Cảnh Ch.

3.5. Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TháiBình đã trả lại chiếc xe máy cho ông Vũ Đình C.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 31 tháng 12 năm 2018).

4. Về án phí: Các bị cáo Phạm Quang T, Vũ Đình M, Nguyễn Văn K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 23/01/2019. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đượcbản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về