Bản án 135/2018/HSST ngày 28/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 135/2018/HSST NGÀY 28/08/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 126/2018/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2018. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2018/QĐXXST-HS ngày 7 tháng 8 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Viết T, sinh năm 1971. HKTT: Thôn Lựa, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Nghề nghiệp; Làm ruộng. Văn hóa; 12/12. Quốc tịch; Việt Nam. Dân tộc; Kinh. Tôn giáo; không. Bố đẻ; Dương Viết Lấy, sinh năm 1940. Mẹ đẻ; Nguyễn Thị Phiên, sinh năm 1940. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ 3. Vợ; Nguyễn Thị Hởi, sinh năm 1973. Con; có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1994. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Chị Hoàng Thị Linh, sinh năm 1997. (đã chết)

Quê quán: Thôn Cốc Nhãn, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.

Do ông Hoàng Văn Thu, sinh năm 1962. (đề nghị vắng mặt)

Quê quán: Thôn Cốc Nhãn, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.

Là bố đẻ chị Linh đại diện tham gia tố tụng.

NHẬN THẤY

Bị cáo Dương Viết T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Dương Viết T, sinh năm 1971 ở thôn Lựa, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có giấy phép lái xe mô tô hạng A1. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 21/12/2017, T điều khiển xe môtô Honda LEAD BKS 99E1-236.05 đi ở phần đường bên trái Quốc lộ 18 hướng Bắc Ninh - Phả Lại đã va chạm vào xe mô tô BKS 30L8- 4855 do chị Hoàng Thị Linh, sinh năm 1997 ở thôn Cốc Nhãn, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn điều khiển, ngồi phía sau xe là anh Nguyễn Quang Thiệu, sinh năm 1987 ở thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Hậu quả của vụ tại nạn đã làm chị Hoàng Thị Linh tử vong tại chỗ, anh Thiệu và T bị thương được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện, 02 xe mô tô hư hỏng nặng.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Võ đã tiến hành điều tra vụ việc, thực hiện việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện gây tai nạn, kết quả khám nghiệm thu được như sau.

* Khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra khoảng 00h40’ ngày 22/12/2017 tại Km 13+450m Quốc lộ 18 thuộc địa phận Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đường thẳng mặt đường dải bê tông nhựa khô rộng 14m, ở giữa tâm đường có một vạch kẻ sơn màu trắng, nét liền chia đoạn đường thành hai chiều đường xe chạy, tầm nhìn rộng không bị vật che khuất. Các dấu vết, phương tiện khi khám nghiệm hiện trường được đánh số thứ tự như sau:

(1) - Vết trượt KT(2,2mx23cm).

(2) - Viết trượt màu đen KT(40cmx10cm).

(3) - Đám cày xước KT(5,8mx96cm).

(4) - Vùng mảnh vỡ KT (6,8mx3,2m).

(5) - Vết dầu loang KT(3,3mx50cm)

(6) - Vị trí xe môtô BKS: 30L8-4855.

(7) - Vị trí bao tải dứa bên trong có đựng cá KT (95cm x 54cm).

(8) - Vị trí nạn nhân nữ đã chết tại hiện trường.

(9) - Vùng máu KT(1,2mx01m).

(10) - Vị trí xe mô tô BKS: 99E1-236.05.

(11) - Vùng máu KT(30cmx25cm).

Chọn cột điện dân dụng số 7B/Guột làm điểm mốc cố định, chọn mép đường bên phải hướng Phả Lại - Bắc Ninh đường Quốc lộ 18 thuộc địa phận Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh làm chuẩn để mô tả thứ tự, vị trí, dấu vết, phương tiện có trên hiện trường.

Các dấu vết được mô tả lần lượt như sau:

(1) - Vết trượt KT (2,2mx23cm) trên mặt đường, điểm khởi đầu vết trượt hướng Phả Lại hơi chếch ra tâm đường, cách mép đường 90cm, điểm kết thúc vết trượt hướng Bắc Ninh hơi chếch vào mép đường cách mép đường 52cm.

(2) - Viết trượt màu đen KT(40cmx10cm) trên mặt đường, điểm khởi đầu vết trượt hướng Phả Lại hơi chếch vào mép đường, điểm gần nhất cách mép đường 1,2m, cách đầu điểm gần nhất vết (1) là 1,7m. Điểm kết thúc vết trượt hướng Bắc Ninh hơi chếch ra tâm đường, điểm gần nhất cách mép đường là 1,25m, cách đầu điểm gần nhất đám cày xước (3) là 70cm.

(3) - Đám cày xước KT(5,8m x 96cm) trên mặt đường, điểm khởi đầu đám cày xước hướng Phả Lại hơi chếch vào mép đường, điểm gần nhất cách mép đường là 40cm, cách đầu vết (4) là 1,25m. Điểm kết thúc đám cày xước hướng vào hệ thống đầu tay nắm người điều khiển tay phanh, cánh yếm, bàn để chân, sườn bên trái xe mô tô (6).

(4) - Vùng mảnh vỡ KT (6,8mx3,2m) trên bề mặt lề đường, điểm khởi đầu vùng mảnh vỡ hướng Phả Lại cách mép đường là 85cm phát triển về hướng Bắc Ninh đến vị trí xe mô tô (6) và xe mô tô (10).

(5) - Vết dầu loang KT(3,3mx50cm) trên mặt đường, điểm khởi đầu vết dầu loang hướng Phả Lại hơi chếch vào mép đường, điểm gần nhất cách mép đường là 1,2m, cách đầu vết (4) là 3,5m. Điểm kết thúc vết dầu loang hướng vào phần lốc máy xe mô tô (6).

(6) - Vị trí xe môtô BKS: 30L8-4855 ở tư thế nằm đổ ngả về phía bên trái xe xuống mặt đường, phần đầu xe hướng Bắc Ninh hơi chếch ra tâm đường, phần đuôi xe hướng Phả Lại hơi chếch vào mép đường, đầu trục giữa bánh lốp sau bên phải cách mép đường 96cm, đầu trục giữa bánh lốp trước bên phải cách mép đường 01m.

(7) - Vị trí bao tải dứa bên trong có đựng cá KT(95cmx54cm) trên mặt đường, điểm gần nhất tiếp giáp với mép đường, điểm gần nhất cách đầu trục giữa bánh lốp sau bên phải xe mô tô (6) là 50cm.

(8) - Vị trí nạn nhân nữ đã chết tại hiện trường, nạn nhân ở tư thế nằm nghiêng về phía bên trái, hai chân hơi co, chân phải tỳ lên chân trái, phần đầu nạn nhân hướng Phả Lại hơi chếch vào mép đường, phần chân nạn nhân hướng Bắc Ninh hơi chếch ra tâm đường, đỉnh đầu nạn nhân cách mép đường 20cm, cách đầu trục giữa bánh lốp trước bên phải xe mô tô (6) là 80cm, phần gót chân bên trái nạn nhân cách mép đường 1,4m.

(9) - Vùng máu KT(1,2m x 01m) trên mặt đường, ở phía dưới nạn nhân (8), điểm gần nhất cách mép đường 15cm.

(10) - Vị trí xe mô tô BKS: 99E1-236.05 ở tư thế nằm đổ ngả về phía bên trái xe xuống mặt đường. Phần đầu xe hướng Phả Lại chếch vào trong mép đường, phần đuôi xe hướng Bắc Ninh hơi chếch ra tâm đường, đầu trục giữa bánh lốp trước bên phải cách mép đường 30cm, cách đầu trục giữa bánh lốp trước bên phải xe mô tô (6) là 1,3m, đầu trục giữa bánh lốp sau bên phải cách mép đường 40cm, cách điểm gần nhất vùng máu (11) là 96cm.

(11) - Vùng máu KT(30cm x 25cm) trên mặt đường, điểm gần nhất cách mép đường 45cm. Đầu trục giữa bánh lốp sau bên phải xe mô tô (6) cách chân cột điện dân dụng 7B/Guột là (5,4mx6m).

* Khám nghiệm xe môtô BKS: 30L8-4855 xác định:

+ Mặt nạ bị dập vỡ trên diện (44x40)cm, trên bề mặt có rải rác vết trầy xước nhựa;

+ Cụm đèn chiếu sáng pha cốt bị dập vỡ bật rời khỏi vị trí ban đầu;

+ Cụm đèn xi nhan phía trước bên phải và bên trái bị dập vỡ bật rời khỏi vị trí ban đầu;

+ Chắn bùn phía trước bị dập vỡ mất mảnh, phần còn lại KT(30x22)cm, trên bề mặt có rải rác vết trầy xước nhựa;

+ Càng xe phía trước bị cong vênh đẩy từ trước về sau, từ trái sang phải;

+ Càng xe phía trước bên phải bị gẫy điểm gẫy cách đầu trục bên trái 09cm, trên bề mặt má ngoài phía trước bên trái có rải rác vết xước kim loại KT (32x5)cm;

+ Trục và lốp xe phía trước bên trái bị cong vênh đẩy từ trước về sau, điểm cong vênh cách đầu trục 07cm;

+ Đầu tay nắm người điều khiển bên trái bị trượt xước kim loại trên diện (3,5x03)cm, đầu tay phanh bên trái có vết trượt xước kim loại KT(02x01)cm;

+ Cánh yếm bên trái bị rách vỡ KT(66x20)cm trên bề mặt có rải rác vết trượt xước nhựa;

+ Vành xe bánh lốp trước bị cong vênh chiều dài 20cm, điểm gần nhất cách chân van 12cm;

+ Ốp nhựa phía sau cánh yếm hai bên bị rách vỡ trên diện (44x45)cm;

+ Ốp nhựa sườn xe bên trái phía trên bàn để chân người lái nẫy hãm bị bật rời khỏi vị trí ban đầu 03cm;

+ Ốp nhựa phía dưới gầm xe bị rách vỡ bật khỏi nẫy hãm KT (28x12)cm;

+ Má ngoài bàn để chân người lái bên trái có vết trượt xước nhựa KT(45x1,2)cm;

+ Má ngoài vỏ ốp máy bên trái rải rác có vết trượt xước nhựa KT(48x10)cm;

+ Ốp nhựa sườn thân xe bên trái có vết trượt xước nhựa KT(15x7)cm, điểm thấp nhất cách mặt đất 56cm;

+ Đèn xi nhan phía sau bên trái có vết trượt xước nhựa KT(5,5x05)cm chiều hướng từ trước về sau từ trên xuống dưới;

+ Cánh yếm bên trái bị rách vỡ bật rời khỏi vị trí ban đầu;

+ Bàn để chân người lái bên phải phía trước bị dập vỡ đẩy từ trái sang phải.

* Khám nghiệm xe mô tô BKS: 99E1-236.05 xác định:

+ Bát gương chiếu hậu bên trái bị bật rời khỏi cần gương;

+ Đầu tay nắm người điều khiển bên trái bị mài xước kim loại KT(1,5x01)cm;

+ Tay phanh bên trái bề mặt bị mài xước kim loại KT(01x0,8)cm;

+ Bát gương chiếu hậu bên phải bị bật rời khỏi cần gương;

+ Tay phanh bên phải bị mài xước kim loại KT(1,2x01)cm;

+ Đồng hồ công tơ mét tiếp giáp với ốp nhựa bên phải bị gẫy rời khỏi vị trí;

+ Ốp nhựa tiếp giáp với đồng hồ công tơ mét bên phải đèn pha cốt trước bị gẫy vỡ KT(30x17)cm;

+ Cụm đèn pha cốt trước ốp nhựa phía trên bật rời khỏi nẫy hãm đồng hồ công tơ mét;

+ Ốp nhựa phía dưới đồng hồ công tơ mét có vết dập vỡ trên diện (21x16)cm;

+ Mặt nạ phía trước dập vỡ rời khỏi vị trí ban đầu;

+ Bề mặt đèn xi nhan trước bên phải dập vỡ KT(35x09)cm;

+ Cụm đèn xi nhan trước bên trái mép ngoài tiếp giáp ốp nhựa bị bật rời khỏi nẫy hãm;

+ Bề mặt phía dưới cụm đèn xi nhan bị dập vỡ trên diện (12x07)cm;

+ Chắn bùn phía trước bị dập vỡ hoàn toàn điểm dập vỡ tiếp giáp nẫy hãm càng trước;

+ Càng trước bị cong đẩy từ trước về sau từ phải sang trái;

+ Bề mặt càng trước bên phải bị mài xước kim loại trên diện (04x03)cm;

+ Ốp bảo vệ giảm sóc trước bên trái có vết vỡ KT(08x02)cm;

+ Bề Mặt ngoài giảm sóc bên phải có vết mài xước kim loại KT(19x03)cm, điểm gần nhất cách đầu trục trước 06cm;

+ Vành trước bị bẹp móp dập vỡ trên diện (26x08)cm;

+ Trục bánh trước bên phải bị cong đẩy từ trước về sau;

+ Bình ác quy bị dập vỡ, giá đỡ bình ác quy bị bẹp móp;

+ Khung xe bị cong đẩy từ trước về sau từ phải sang trái;

+ Thanh inox bảo vệ xe phía trước bên trái bị cong đẩy từ trước về sau từ ngoài vào trong;

+ Cánh yếm bên trái bị dập vỡ hoàn toàn;

+ Bề mặt thanh bảo vệ inox có vết mài xước trên diện (40x1,5)cm;

+ Yên xe phía trước bên trái có diện mài xước (25x10)cm, trên bề mặt có dính bụi bẩn, điểm gần nhất cách đầu yên xe 10cm;

+ Bề mặt ngoài phía trước tay nâng xe bên trái có diện mài xước (11x02)cm, điểm gần nhất cách đầu tay nâng 8,5cm;

+ Ốp nhựa phía sau sườn bên trái trên bề mặt có vết mài xước kim loại không liên tục trên diện (27x14)cm;

+ Bề mặt trước bàn để chân người ngồi sau có vết xước kim loại trên diện (09x2,5)cm;

+ Bề mặt ngoài thanh inox bảo hiểm bên trái phía sau có vết mài xước kim loại KT(30x12)cm;

+ Cánh yếm bên phải bị dập vỡ trên diện (20x12)cm.

* Khám nghiệm tử thi Hoàng Thị Linh xác định:

* Khám ngoài:

- Nhận dạng tử thi: Tử thi là nữ giới được xác định là Hoàng Thị Linh SN: 1997 HKTT: thôn Cốc Nhãn, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.

- Chiều dài tử thi: 1,65m. Thể tạng: bình thường

- Trang phục: Mặc ngoài áo khoác màu đen toàn bộ áo có bám dính nhiều máu dạng thấm thân áo phía trước bên phải cách đường chỉ may dọc theo khóa áo 3,5cm và cách trên vạt áo 8,5cm có vết rách vải nằm dọc KT(2,5x0,5)cm bờ mép nham nhở; vai áo phía sau bên phải cách đường chỉ may thân áo ống tay áo 02cm có diện bám dính chất màu xám trắng không liên tục KT(08x07)cm. Trong mặc áo dài tay màu đen, trong mặc áo cộc tay màu hồng, mặc áo ngực màu trắng. Mặc quần bò ngắn màu xanh trong mặc quần lót màu đỏ.

- Tình trạng tử thi: Xác mềm.

Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

- Vùng đầu có tóc che phủ không phát hiện tổn thương;

- Vùng trán phải cách đường giữa phía trước 1,5cm và ngay sát đường chân tóc trán có vết thương rách da nằm dọc KT(7,5x01)cm bờ mép tương đối gọn. Đầu dưới của vết thương có vết thương rách da nằm ngang KT(05x0,5)cm bờ mép tương đối gọn;

- Hai mắt nhắm, niêm mạc nhợt nhạt, đồng tử giãn;

- Vùng gò má bên phải cách dưới đuôi mắt phải 1,5cm có vết thương rách da nằm ngang KT(04x01)cm bờ mép tương đối gọn;

- Lỗ tai phải khô, lỗ tai trái, mũi, miệng có máu chảy ra khi thay đổi tư thế;

- Sờ nắn thấy lạo xạo xương ở vùng xương chính mũi;

- Mặt trong môi trên và môi dưới bên phải có diện bầm tụ máu không liên tục KT(2,5x4,5)cm;

- Vùng cổ không phát hiện tổn thương;

- Thành ngực vững, vùng bụng, ngực không phát hiện tổn thương;

- Hai tay không phát hiện tổn thương;

- Khung chậu vững, bộ phận sinh dục không phát hiện tổn thương;

- Mặt trước toàn bộ đùi phải từ đầu gối có diện xây xát da không liên tục trên diện (40x17)cm;

- Mặt trước ngoài 1/3 dưới đùi trái đến đầu gối trái có nhiều vết xây xát da không liên tục KT(17x15)cm;

- Vùng lưng, mông không phát hiện tổn thương.

* Mổ tử thi:

Giải phẫu theo vết rách da vùng trán phải thấy bong chóc tổ chức dưới da vùng trán phải, vỡ nún xương hộp sọ vùng trán phải thành nhiều mảnh diện đo được KT(6,5x5,5)cm. Vết vỡ xương lan vào xương thái dương phải và xương ở mắt phải, qua vết vỡ xương thấy rách màng cứng vùng trán phải, dập tổ chức não bên trong, một phần tổ chức não thoát ra ngoài qua vết vỡ xương.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 38/KLPY-PC54 ngày 09/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Nguyên nhân chết của Hoàng Thị Linh - sinh năm 1997 ở thôn Thôn Cốc Nhãn, xã Yên Khoái, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn là do chấn thương sọ não”

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 87/CTr-VKS ngày 10/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Dương Viết T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội Dương Viết T và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 (tương ứng với điểm b điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015); Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt Dương Viết T từ 12 đến 16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 32 tháng. Về trách nhiệm dân sự phía bị cáo T đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền 85.000.000 đồng, do các bên đã tự thỏa thuận xong và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết. Vật chứng của vụ án là giấy phép lái xe hạng A1 số 270136002957 mang tên Dương Viết T, căn cứ Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo T.

Bị cáo T nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo cơ hội cải tạo tại địa phương.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe tai nạn cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ để kết luận; Vào khoảng 23h 30 phút ngày 21/12/2017 bị cáo Dương Viết T có giấy phép lái xe hạng A1 khi điều khiển môtô BKS 99E1-236.05 đi ở phần đường bên trái Quốc lộ 18 hướng Bắc Ninh – Phả Lại tại địa phận thôn Guột, xã Việt Hùng, huyện Quế Võ đã không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn nên dẫn đến va chạm với xe môtô BKS 30L8- 4855 do chị Hoàng Thị Linh điều khiển chở theo anh Nguyễn Quang Thiệu đang đi theo hướng ngược lại. Hậu quả va chạm đã làm chị Linh bị tử vong tại chỗ, anh Thiệu và bị cáo bị thương tích. Hành vi điều khiển phương tiện giao thông đi bên trái làn đường của bị cáo T đã vi phạm vào quy định tại Điều 9 Luật giao thông đường bộ. Hậu quả của việc điều khiển phương tiện vi phạm luật giao thông đường bộ đã gây tử vong cho chị Linh nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự giao thông đường bộ, xâm phạm đến trật tự công cộng và là mối lo ngại cho mọi người khi tham gia giao thông trên đường bộ do vậy cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung.

Xem xét về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về tình tiết giảm nhẹ; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đã cùng gia đình thăm hỏi gia đình nạn nhân cũng như đã chủ động thực hiện việc bồi thường, khắc phục hậu quả cùng với gia đình người bị hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra, phía ông Hoàng Văn Thu là bố đẻ và là người đại diện cho người bị hại cũng có đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa tuy ông Thu vắng mặt nhưng cũng có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo sau khi sự việc xảy ra đã đến cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố đẻ là ông Dương Viết Lấy là người có công với cách mạng đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 3 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo cũng có nơi cư trú rõ ràng nên thấy rằng chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng là một bài học sâu sắc cho bị cáo để có ý thức chấp hành pháp luật tốt, nhất là ý thức chấp hành luật giao thông khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.

Về phần trách nhiệm bồi thường dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra bị cáo đã bồi thường cho gia đình ông Thu số tiền là 85.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Hai bên đã thống nhất việc bồi thường và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận này và không xem xét giải quyết trong vụ án.

Đối với anh Nguyễn Quang Thiệu chỉ bị thương nhẹ, anh Thiệu từ chối việc giám định và cũng không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường nên Tòa án không đưa anh

Thiệu vào tham gia tố tụng và không xem xét giải quyết trong vụ án. Vật chứng liên quan đến vụ án có 01 xe máy Honda LEAD màu vàng BKS 99E1- 236.05 của chị Trần Thị Thái là con dâu bị cáo T và chiếc xe máy Yamaha Nuovo BKS 30L8-4855 xác định thuộc sở hữu của anh Nguyễn Quang Thiệu, quá trình giải quyết vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu, chị Thái, anh Thiệu đã nhận xe và cũng không có yêu cầu gì nên Tòa án cũng không đưa và tham gia tố tụng để giải quyết trong vụ án. Đối với 01 giấy phép lái xe hạng A1 của bị cáo T, do Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cấm lái xe đối với bị cáo nên trả lại cho bị cáo sử dụng.

Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Viết T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60; Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Dương Viết T 15 (mười năm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/8/2018.

Giao bị cáo cho UBND xã Việt Hùng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh quản lý bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo T đã bồi thường cho gia đình người bị hại do ông Nguyễn Văn Thu đại diện số tiền là 85.000.000 đồng, các bên không có yêu cầu về phần trách nhiệm dân sự nên không xem xét giải quyết.

3. Về vật chứng của vụ án: Trả lại bị cáo T 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 270136002957 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 4/3/2013 mang tên Dương Viết T (theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 12/7/2018 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Hoàng Văn Thu có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2018/HSST ngày 28/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:135/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về