Bản án 137/2019/HS-PT ngày 05/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 137/2019/HS-PT NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 03 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 46/2019/TLPT-HS ngày 08/01/2019 đối với bị cáo Lê Duy Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 237/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Duy Q; sinh năm: 1989; tại: tỉnh TH; đăng ký thường trú: thôn CS, xã CT, huyện NL, tỉnh TH; chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Duy L và bà Phan Thị T; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không có;

- Nhân thân: Ngày 11/05/2011, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Cướp tài sản” tại bản án số 107/2011/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2015 và thi hành xong nghĩa vụ án phí ngày 17/10/2011.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 06/9/2018 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1981; Địa chỉ: 109/14/15 TPP, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Chí A, sinh năm: 1992; Địa chỉ: 446 TN, Phường 16, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

2. Ông Hồ Thế C, sinh năm: 1993; Địa chỉ: 71E Đường số 5, Phường 16, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Duy Q là nhân công đóng bình nước cho chị Nguyễn Thị H tại địa chỉ 109/14/15 TPP, khu phố 8, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình làm việc, Q để ý chị H đi chợ về thường để xe gắn máy hiệu Piaggio Vespa biển số 50N1-004.xx trước cổng nhà, chìa khóa xe để trong phòng ngủ ở lầu 2 nên Q nảy sinh ý định trộm cắp xe của chị H bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 18h30’ ngày 09/8/2018, khi chị H đi chợ về để xe gắn máy nêu trên trước cổng nhà số 109/14/15 TPP (trong cốp xe có giấy đăng ký xe) và mang chìa khóa lên lầu 02 để như mọi khi. Q đã lén lút lên lầu 2 lấy trộm chìa khóa xe và xuống nhà nổ máy xe bỏ trốn. Sau khi chiếm đoạt được xe máy hiệu Piaggio Vespa biển số 50N1-004.xx đến ngày 10/8/2018, Q mang xe đến cầm cho Huỳnh Chí Hiếu - chủ tại tiệm cầm đồ NT (địa chỉ: số 446 TN, khu phố 5, Phường 16, quận GV) được 24.000.000 đồng. Q dùng số tiền này chơi game bắn cá và tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, nhận thấy không thể trốn tránh được pháp luật nên ngày 05/9/2018, Q đến Công an phường BC, quận TĐ tự thú về hành vi “Trộm cắp tài sản” của mình. Sau đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TĐ chuyển hồ sơ đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận BT điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 1078/KL-HĐĐGTTHS ngày 10/9/2018 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Piaggio Vespa biển số 50N1-004.xx đã qua sử dụng có trị giá 43.000.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận BT, Lê Duy Q đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 237/2018/HSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Lê Duy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: bị cáo Lê Duy Q 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/9/2018.

- Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 10/12/2018, bị cáo Lê Duy Q kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Bình Tân kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt vì mức án quá nặng so với mức độ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Duy Q giữ nguyên kháng cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã Hi do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Duy Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong thời gian luật định và tại phiên tòa bổ sung yêu cầu kháng cáo là hợp lệ nên cần được xem xét.

Xét, bị cáo Lê Duy Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới để được xem xét và mức án 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, đề nghị Hi đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Duy Q và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh khó khăn, có con nhỏ và đã nhận thức được hành vi của mình, mong muốn nhận được mức án khoan hồng để có cơ Hi sớm chấp hành án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hi đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Duy Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản về việc người phạm tội ra đầu thú – tự thú, biên bản thu giữ đồ vật – tài liệu, lời khai của (bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án), bản kết luận giám định cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 18h30’ ngày 09/8/2018, bị cáo Lê Duy Q đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút, bí mật thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là 01 xe gắn máy hiệu Piaggio Vespa biển số 50N1 – 004.xx (trong cốp xe có Giấy đăng ký xe) của chị Nguyễn Thị H dựng trước cửa nhà số 109/14/15 TPP, phường BTĐ, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tài sản bị cáo Lê Duy Q chiếm đoạt: Theo bản kết lun định giá tài sản số 1078/KL-HĐĐGTTHS ngày 10/9/2018 của Hi đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận BT kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Piaggio Vespa biển số 50N1 – 004.21 đã qua sử dụng có trị giá 43.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo Lê Duy Q là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng với động cơ vụ lợi bất chính muốn có tiền tiêu xài vẫn cố ý phạm tội.

Với trị giá tài sản chiếm đoạt và hành vi nêu trên của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử bị cáo Lê Duy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/12/2018, bị cáo Lê Duy Q có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Xét khi quyết định hình phạt, mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và sau khi phạm tội đã ra tự thú; nhưng phần căn cứ để quyết định hình phạt đối với bị cáo Lê Duy Q không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có thiếu sót. Tuy nhiên, tình tiết này đã được Hi đồng xét xử cấp sơ thẩm xem xét khi nghị án lượng hình đối với bị cáo nên cần bổ sung phần căn cứ cho chính xác chứ không cần thiết phải hủy, sửa bản án về phần này. Cấp sơ thẩm cần lưu ý rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo: Bị cáo Lê Duy Q đã lợi dụng là người làm công trong nhà bị hại để theo dõi, có sự tính toán và chuẩn bị chờ thời cơ để phạm tội, chiếm đoạt tài sản trị giá 43.000.000 đồng của bị hại; và về nhân thân từng bị xét xử về tội “Cướp giật tài sản”, đã được giáo dục, răn đe nhưng không coi đó là bài học để cải tạo, sửa chữa thành người có ích cho xã Hi. Muốn có tiền tiêu xài chơi game bắn cá nhưng lười lao động lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội, thể hiện thái độ xem thương pháp luật.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Duy Q mức án 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù là thỏa đáng; mới đủ tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

Xét, bị cáo Lê Duy Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa không có tình tiết giảm nhẹ gì mới và các tình tiết bị cáo nêu ra đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ, toàn diện khi quyết định hình phạt; nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm và bổ sung căn cứ điều luật áp dụng cho phù hợp với quy định của pháp luật.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo Lê Duy Q phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hi quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Duy Q và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Tuyên bố: bị cáo Lê Duy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+Căn cứ Khoản 1 Điều 173; các điểm r, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Duy Q 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/09/2018.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hi quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc Bị cáo Lê Duy Q phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HS-PT ngày 05/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:137/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về