Bản án 137/2019/HSST ngày 19/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 137/2019/HSST NGÀY 19/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2019/ HSST ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 223/2019/QĐXXST-HS ngày 06/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cao Dũng S; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày 06/6/1979 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; Con ông: Cao Văn Q, đã chết; Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1958 (trú tại: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); Có 04 anh, em, bị cáo là con cả trong gia đình; Vợ,Con: chưa có; Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 24/10/2018 bị Công an thành phố Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc bằng hình thức phạt tiền; Tiền án: không;

Nhân thân: Ngày 21/5/2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 21/6/2006 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng kể từ ngày 17/9/2019 đến ngày 08/10/2019 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh; Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đinh Văn L; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày: 31/8/1962 tại thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Dân tộc: tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không nghề; Trình độ học vấn: 10/10; Con ông: Đinh Văn V; Con bà: Nguyễn Thị T, đều đã chết; Có 06 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1961 (Trú tại: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); Con: 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1993; Tiền sự, tiền án: không;

Nhân thân: Ngày 02/12/2009 bị Công an phường Tân Giang, thị xã Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 380.000đ (ba trăm tám mươi nghìn đồng); Ngày 28/4/2011 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng kể từ ngày 17/9/2019; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị P - sinh năm 1961

Địa chỉ: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại nhà ở của Cao Dũng S thuộc Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, Công an phường Tân Giang, thành phố Cao Bằng phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra Tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Cao Bằng đã phát hiện và bắt quả tang Cao Dũng S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột có khối lượng 2,13 gam (hai phảy một ba gam) do S tự giác lấy ra giao nộp; tiền Việt Nam 8.000.000đ (tám triệu đồng) thu giữ trong ví giả da màu nâu để trong túi quần trên đầu giường trong phòng ngủ của S; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu xanh, số Imei 356446087103706/0; 01 (một) ví giả da màu nâu. Qua đấu tranh S thừa nhận chất bột màu trắng kể trên là Heroine, được S mua với một người đàn ông tên Lưỡng (Lưỡng Dê) nhà ở khu vực Ủy ban nhân dân phường T.

Mở rộng điều tra, hồi 11 giờ 40 phút cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, đồ vật của Đinh Văn L tại Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, phát hiện và thu giữ: 01(một) túi nilon màu đen bên trong có 01 (một) bao giả da màu đen chứa 10 (mười) gói nhỏ, trong đó có 08 (tám) gói được bọc bằng lớp nilon màu xanh bên trong là lớp giấy bạc màu trắng, 01 (một) gói được bọc bằng lớp nilon màu hồng bên trong là lớp giấy bạc màu trắng và 01 (một) gói giấy bạc màu trắng, tất cả các gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột (L khai nhận là Heroine), có tổng khối lượng 2,66 gam (hai phảy sáu sáu gam); 01 (một) chiếc cân điện tử màu đen mặt trước có chữ POCKET SCALE. Toàn bộ số đồ vật trên được phát hiện và thu giữ tại khe giữa hai tấm tôn đặt sát hiên nhà phía bên phải nhà của L (theo hướng nhà nhìn ra); tiền Việt Nam 1.790.000đ (một triệu bẩy trăm chín mươi nghìn đồng) thu giữ trong chiếc ví giả da màu đen trên giường trong phòng ngủ của Đinh Văn L; tiền Việt Nam 204.250.000đ (hai trăm linh bốn triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ trong tủ gỗ phòng ngủ của Đinh Văn L; 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen, mặt trước và sau đều có chữ Nokia số seri 1: 357339088353785 thu giữ trên bàn tại phòng khách của L; 01 (một) điện thoại di dộng màu đen mặt sau có chữ Iphone, số Imei 356695085803499 thu trên bàn trong phòng khách nhà của L; 01 (một) điện thoại di động màu ghi xám mặt trước và sau đều có chữ SamSung số Imei 35677/06/092195/0 thu giữ trên giường trong phòng ngủ nhà của L.

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng ra Quyết định trưng cầu giám định số 181 đối với vật chứng vụ án. Tại Bản kết luận giám định số 249/GĐMT ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “02 (hai) mẫu chất bột màu trắng bên trong 02(hai) phong bì niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại Heroine”.

Hành vi trên đây của các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại bản Cáo trạng số: 126/CT-VKSTP ngày 29/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, các bị cáo nhất trí với Bản kết luận giám định số: 249/GĐMT ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “02 (hai) mẫu chất bột màu trắng bên trong 02(hai) phong bì niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại Heroine”.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Cao Dũng S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo Cao Dũng S từ 24 đến 30 tháng tù;

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Đinh Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Văn L từ 30 đến 36 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân khám xét vụ Đinh Văn L – sinh năm 1962; HKTT: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân vụ Cao Dũng S – sinh năm 1979; HKTT: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) cân điện tử màu đen mặt trước có chữ POCKET SCALE.

Tch thu hóa giá phát mại sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động Sam Sung màu xanh số Imei 356446087103706/01 thu giữ của Cao Dũng S.

Hoàn trả cho bị cáo Cao Dũng S: 01 (một) ví giả da màu nâu và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền việt Nam: 8.000.000 đ (tám triệu đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 02 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án.

Hoàn trả cho bị cáo Đinh Văn L tài sản gồm: 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen, mặt trước và sau đều có chữ Nokia số seri 1: 357339088353785;

01 (một) điện thoại di dộng màu đen mặt sau có chữ Iphone, số Imei 356695085803499; 01 (một) điện thoại di động màu ghi xám mặt trước và sau đều có chữ SamSung số Imei 35677/06/092195/0; 01(một) bao da màu đen và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền việt Nam: 106.040.000 đ (một trăm linh sáu triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 06 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 04 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Tại phần tranh luận, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng. Khi được nói lời sau cùng,các bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để các bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và điều khoản xét xử: Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản hỏi cung bị can, bản kết luận giám định, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 17 tháng 9 năm 2019 tại nhà của Cao Dũng S thuộc Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng Công an phường Tân Giang, thành phố Cao Bằng phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra Tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Cao Bằng bắt quả tang Cao Dũng S đang có hành vi tàng trữ trái phép 2,13 gam (hai phảy một ba gam) Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Mở rộng điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, chỗ ở, đồ vật của Đinh Văn L tại Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng phát hiện L đang có hành vi tàng trữ trái phép 2,66 gam (hai phảy sáu sáu gam) Heroine. Số Heroine này được L tàng trữ với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cao Dũng S là người nghiện ma túy, nhân thân xấu. Ngày 21/5/2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 21/6/2006 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà khi có cơ hội lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý trực tiếp. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Đinh Văn L là người có nhân thân xấu. Đã có tiền án, tiền sự, ngày 02/12/2009 bị Công an phường Tân Giang, thị xã Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 380.000 đ (Ba trăm tám mươi nghìn đồng); ngày 28/4/2011 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tuyên phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà khi có cơ hội lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý trực tiếp. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về vai trò của các bị cáo trong án, không có sự bàn bạc trao đổi, mua bán, mục đích của các bị cáo là tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, nhằm thỏa mãn cơn nghiện; nên khi lượng hình cũng cần cân nhắc xem xét để có mức án phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi của các bị cáo đã gây ra, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo trong vụ án.

[4] Về hình phạt chính: Căn cứ vào nhân thân của các bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi các bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với các bị cáo là hoàn toàn phù hợp, nên cần chấp nhận với mức hình phạt đã đề nghị của viện kiểm sát.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…” .

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Đối với nguồn gốc số ma túy, Cao Dũng S khai mua với Đinh Văn L vào ngày 15 tháng 9 năm 2019 và việc mua bán không có ai biết, chứng kiến nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng không đủ căn cứ để xử lý đối với Đinh Văn L theo quy định của pháp luật.

Đi với nguồn gốc số ma túy, Đinh Văn L khai mua với một người đàn ông không biết tên và địa chỉ tại khu vực bến xe khách thành phố C thuộc phường S, thành phố C và việc mua bán không có ai biết, chứng kiến. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng không thể tiến hành xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra xác định được trong số tiền tạm giữ của Đinh Văn L có 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) là thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị P (trú tại Tổ S, phường T, thành phố C), là vợ của L. Xét thấy số tiền trên không liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của Đinh Văn L nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng tiến hành trả lại số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) cho bà P để quản lý và sử dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị P xác nhận đã nhận lại đủ số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng); Nên hội đồng xét xử không đặt ra việc xem xét giải quyết [7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:

- 01(Một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân khám xét vụ Đinh Văn L - sinh năm 1962; HKTT: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân vụ Cao Dũng S - sinh năm 1979; HKTT: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) cân điện tử màu đen mặt trước có chữ POCKET SCALE.

Tch thu hóa giá phát mại sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Sam Sung màu xanh số Imei 356446087103706/01 (trong phong bì niêm phong);

Hoàn trả cho bị cáo Cao Dũng S: 01(một) ví giả da màu nâu và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam: 8.000.000 đ (Tám triệu đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 02 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án.

Hoàn trả cho bị cáo Đinh Văn L tài sản gồm: 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen, mặt trước và sau đều có chữ Nokia số seri 1: 357339088353785; 01 (một) điện thoại di dộng màu đen mặt sau có chữ Iphone, số Imei 356695085803499; 01 (một) điện thoại di động màu ghi xám mặt trước và sau đều có chữ SamSung số Imei 35677/06/092195/0; 01(một) bao da màu đen và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam: 106.040.000 đ (một trăm linh sáu triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 06 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 04 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án;.

Số vật chứng trên hiện nay đang lưu giữ tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/12/2019.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Cao Dũng S.

Xử phạt: Bị cáo Cao Dũng S 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2019 đến ngày 08/10/2019.

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Đinh Văn L.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn L 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 17/9/2019.

Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân khám xét vụ Đinh Văn L – sinh năm 1962; HKTT: Tổ S, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tang vật cân vụ Cao Dũng S – sinh năm 1979; HKTT: Tổ B, phường T, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 17/9/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- 01 (một) cân điện tử màu đen mặt trước có chữ POCKET SCALE.

Tch thu hóa giá phát mại sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Sam Sung màu xanh số Imei 356446087103706/01 (trong phong bì niêm phong);

Hoàn trả cho bị cáo Cao Dũng S: 01 (một) ví giả da màu nâu và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam: 8.000.000 đ (tám triệu đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 02 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án.

Hoàn trả cho bị cáo Đinh Văn L tài sản gồm: 01 (một) điện thoại di động màu xanh đen, mặt trước và sau đều có chữ Nokia số seri 1: 357339088353785;

01 (một) điện thoại di dộng màu đen mặt sau có chữ Iphone, số Imei 356695085803499; 01 (một) điện thoại di động màu ghi xám mặt trước và sau đều có chữ SamSung số Imei 35677/06/092195/0; 01 (một) bao da màu đen và 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam: 106.040.000 đ (một trăm linh sáu triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng), mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 06 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng và 04 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng vì không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng để đảm bảo việc thi hành án;.

Số vật chứng trên hiện nay đang lưu giữ tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/12/2019.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Các bị cáo Cao Dũng S và Đinh Văn L mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HSST ngày 19/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:137/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về