Bản án 139/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 139/2018/HS-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 128/2018/HS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Vương Xuân H (tên gọi khác: H đen), sinh năm 1985, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; cha: Vương Xuân H, sinh năm 1949 và mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1949; tiền án: Tại bản án số 117/2011/HSPT ngày 24/8/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tại bản án số 27/2015/HSST ngày 14/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày 19/6/2018 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1980; trú tại: Ấp X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bến Tre (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vương Xuân H là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Vào khoảng 9 giờ ngày 10/6/2018, H đến quán cà phê của ông Trần Xuân T, sinh năm 1958, HKTT: thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh BR-VT, để chơi. Tại đây, H thấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ - đen, BKS: 72E1-258.81 của ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1980, HKTT: Ấp X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bến Tre, đang dựng ở quán, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khi mọi người trong quán không ai để ý, H đến dắt chiếc xe rồi dẫn vào một con hẻm ở gần đó tháo dây ổ khóa điện, nổ máy, điều khiển xe lên thành phố Hồ Chí Minh, bán cho một người đàn ông (không rõ nhân thân, lại lịch) được 5.000.000 đồng (trong đó: H nhận 2.000.000 đồng và số lượng ma túy tương đương số tiền 3.000.000 đồng). Sau khi bán được xe, H quay về nhà tại xã Y, thị xã Z, tỉnh BR – VT, đến chiều ngày 17/6/2018, H điều khiển xe mô tô BKS 60X5 – 7662 (mượn của T – chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) chở Đ (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) lên thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để trộm cắp tài sản thì bị công an xã Z, thành phố Y, tỉnh Đồng Nai, kiểm tra hành chính. Tại cơ quan công an, Vương Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Riêng đối tượng Đ đã bỏ trốn.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 71/KL ngày 19/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự UBND thị xã Phú Mỹ kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 72E1-258.81 trị giá: 11.430.000đ (Mười một triệu, bốn trăm ba mươi nghìn đồng).

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe mang tên Ngô Thanh L; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 60X5 – 7662 mang tên Lê Kim H; 01 xe mô tô BKS 60X5 – 7662; 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng, dài khoảng 50cm. Hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu của những đồ vật, tài liệu nêu trên nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Phú Mỹ đã tách ra khỏi vụ án, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Phần dân sự: Tại phiên tòa, bị hại - anh Nguyễn Văn P không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại giá trị chiếc xe bị mất.

Tại bản cáo trạng số 139/CT-VKS ngày 23/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành đã truy tố Vương Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luậthình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Vương Xuân H mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù;

Về trách nhiệm dân sự: do bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa bị cáo Vương Xuân H không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh, không oan; bị cáo nói lời sau cùng: xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh:

Khoảng 09 giờ ngày 10/6/2018 tại thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh BR-VT, Vương Xuân H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ - đen, BKS: 72E1-258.81, trị giá 11.430.000đ (Mười một triệu, bốn trăm ba mươi nghìn đồng) của ông Nguyễn Văn P. Hành vi trên của bị cáo Vương Xuân H đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về áp dụng khung hình phạt:

Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục phạm tội mới nên xác định là tình tiết tái phạm nguy hiểm nên cần áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử bị cáo.

[4] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo gây ra thì thấy: Bị cáo thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, liều lĩnh và do tham lam tư lợi. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về tính tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn P không yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị của chiếc xe, nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vương Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Vương Xuân H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 6 năm 2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét, giải quyết.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Bị cáo Vương Xuân H phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

5. Trường hợp, bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:139/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về