Bản án 139/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 139/2019/HS-ST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 128/2019/HSST ngày 12 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn A, sinh năm 1970 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số nhà xxx đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 10/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Trần Quý H(đã chết) và bà Bùi Thị C (đã chết); vợ: Lê Thị T, sinh năm 1972, bị cáo 02 con: con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12-6-2002, Công an thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Cố ý gây thương tích”; tạm giữ từ ngày 01-3-2019 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 45 phút ngày 01-3-2019, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ xx đường L, phường T, thành phố N phát hiện Trần Văn A đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra A tự giác giao nộp từ tay phải 01 gói nilon màu trắng; tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong có 02 gói giấy bạc màu vàng đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (A khai là 02 gói heroine của A). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa A và mời người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của A chiếc điện thoại di động Nokia màu đen ghi đã cũ.

Bản kết luận giám định số 226/GĐKTHS ngày 05-3-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng thu giữ của Trần Văn A được niêm phong gửi giám định đều là ma tuý; loại ma tuý: Heroine; tổng khối lượng mẫu: 0,199 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn A đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 01-3-2019, A đi bộ một mình từ nhà đến đường P, phường T, thành phố N gặp và mua của một nam thanh niên (không rõ lai lịch) đang đứng trên vỉa hè đường 01 gói heroin với giá 100.000 đồng. A cầm gói heroine vừa mua được trương tay phải rồi đi về tìm nơi sử dụng. Trên đường đi, A chia gói heroine trên thành hai phần, rồi dùng giấy bạc màu vàng gói lại thành hai gói nhỏ, sau đó lấy nilon màu trắng bọc hai gói heroine đó lại và cầm trên tay phải tiếp tục đi về. Khi A đi đến đầu ngõ xx đường L, phường T, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đi với đối tượng đã bán ma túy cho A, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 133/CT-VKSTPNĐ ngày 11-4-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Văn A tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn A về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn A từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; trả lại bị cáo A 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen ghi đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 01-3-2019, Trần Văn A đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,199 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực đầu ngõ xx đường L, phường T, thành phố N.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 226/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen ghi đã cũ là tài sản riêng của bị cáo xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo A nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trần Văn A 15 (mười lăm) tháng tù.

- Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 01-3-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 226/GĐKTHS;

- Trả lại bị cáo Trần Văn A 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen ghi đã cũ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Trần Văn A phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:139/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về