Bản án 141/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN – TỈNH TN

BẢN ÁN 141/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thàn phố TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 131/2019/HSST ngày 8/2/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2019/QĐXXST-HS ngày 02/04/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 18 tháng 03 năm 1974; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm AV, phường ĐB, thành phố TN , tỉnh TN ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 8/10; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội: (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Nguyễn Đình Khúc, sinh năm 1929, trú tại xóm Ao Voi, phường ĐB, thành phố TN ; Con bà: Nguyễn Thị Trợ (đã chết); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; có vợ là Nguyễn Thị Hiển, sinh năm 1978, có 01 con sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án số 46/HSST ngày 08/02/1999 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù giam.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TN , bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/12/2018 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Mạnh M, sinh năm 1944 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xóm AV, phường ĐB, TP TN , TN.

Anh Trần Mạnh C, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Xóm AV, phường ĐB, TP TN , TN .

Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Quốc A, sinh năm 1991 ( Vắng mặt)

Đa chỉ: Xóm Tân Hương, phường ĐB, TP TN , TN .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 04/12/2018, tổ công tác của Công an phường ĐB, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Ao Voi, phường ĐB, thành phố TN thì phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai tên Nguyễn Văn T, Tới tự giác lấy từ lòng bàn tay trái của Tới 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng (theo Tới khai đó là Heroin) giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tới, niêm phong thu giữ số Heroin nêu trên theo đúng quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Tới 01 xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu Neww Angel màu đen BKS: 20F9 – 6636.

Cùng ngày, tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ được của Nguyễn Văn T có khối lượng 0,149gam. Tại bản kết luận giám định số 89/KL-PC09 ngày 11/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Tới là chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,149gam.

Ti cơ quan điều tra Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 04/12/2018, Tới điều khiển xe mô tô nhãn hiệu New Angel màu đen, BKS 20F9-6636 (xe Tới mượn của anh Trần Mạnh C, sinh năm 1984, địa chỉ xóm Ao Voi, phường ĐB, thành phố TN ) một mình đi đến khu vực xóm Đồng Tâm, phường ĐB, thành phố TN mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, Tới gặp và mua 01 gói Heroin của một người đàn ông tên Hiếu (không rõ lai lịch) với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Tới cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái và đi mua xi lanh để sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Li khai của Nguyễn Văn T phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được và những tài liệu khác có trong hồ sơ.

Vt chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu T1; 01 xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu New Angel màu đen, BKS: 20F9-6636 hiện đang được lưu giữ, bảo quản tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 136/CT-VKSTPTN , ngày 07/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN , tỉnh TN đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Vt chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu T1.

- Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN , của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hi 13 giờ 45 phút ngày 04/12/2018, tại khu vực xóm Ao Voi, phường ĐB, thành phố TN , Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,149 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường ĐB, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Ti phạm và hình phạt của Nguyễn Văn T được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ni dung điều luật quy định như sau:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ......................................thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm c, Heroine.... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TN HS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo gây lên mối nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến các quy định độc quyền quản lý và sử dụng của Nhà nước về các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây nên tác hại rất xấu cho xã hội, hủy hoại về kinh tế, sức khỏe con người và cũng là nguyên nhân phát sinh ra các tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần có một mức án nghiêm khắc và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội giúp bị cáo cai nghiện và răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TN HS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. có nhân thân xấu tại bản án số 46/1999/HSST của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội đã xử phạt bị cáo 10 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản của công dân nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học và tiếp tục phạm tội. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, vì vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm M của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo, xét thấy là phù hợp được chấp nhận. [6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác M bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản gì riêng, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS.

[7]. Về vật chứng vụ án: áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong có chứa Heroin. Đối với chiếc xe mô tô New Angel màu đen, đã qua sử dụng, vỏ nhựa vỡ nứt nhiều chỗ, có 01 gương bên trái, nhãn hiệu SYM, BKS 20F9 – 6636, số khung: A4V-636798, số máy: FT- 636798, loại xe hai bánh 50-175cm3, dung tích 81, đăng ký xe mang tên Dương Thành Dung, quá trình điều tra xác định anh Dung đã bán chiếc xe trên và không có yêu cầu gì, chiếc xe trên được ông Nguyễn Mạnh M là bố đẻ của anh Nguyễn Mạnh C (người cho Tới mượn xe) mua lại tại cửa hàng bán xe máy cũ, ông M không biết việc C cho Tới mượn xe để sử dụng vào việc đi mua ma túy. Vì vậy, trả lại cho ông M chiếc xe trên để quản lý và sử dụng.

[8]. Các vấn đề khác: Trong vụ án này, Tới khai đã mua ma túy của Hiếu, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở để làm rõ, xử lý.

[9]. Bị cáo phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1, Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T: 18 (Mười tám) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 04/12/2018; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong có chứa Heroine.

+ Trả lại cho ông Nguyễn Mạnh M 01 chiếc xe mô tô New Angel màu đen, đã qua sử dụng, vỏ nhựa vỡ nứt nhiều chỗ, có 01 gương bên trái, nhãn hiệu SYM, BKS 20F9-6636, số khung: A4V- 636798, số máy: FT- 636798, loại xe hai bánh 50- 175cm3, dung tích 81 quản lý và sử dụng.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 205 ngày 12/03/2019).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:141/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về