Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 14/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 03 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 21/2017/TLST-HNGĐ ngày 11/7/2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2018/QĐ-ST ngày 15 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh H, sinh ngày 23/10/1980.

Hiện cư trú: thôn 16, xã Lộc N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

Bị đơn: Anh Hà Thanh H, sinh ngày 19/10/1979.

Hiện cư trú:Cotswolds, Gloucestershire, United Kingdom, Vương quốc Anh.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi xuất cảnh: thôn 16, xã Lộc N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn về việc “Ly hôn” ngày 06/7/2017, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thanh H và anh Hà Thanh H kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam vào ngày 10/01/ 2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính cách không phù hợp vợ chồng không còn sự tin tưởng lẫn nhau về tình cảm lẫn kinh tế sau đó anh H đi nước ngoài và không liên lạc với mẹ con chị H. Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H làm đơn yêu cầu Tòa án xử cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng có hai con chung là cháu Hà Tiến Đ sinh ngày 10/3/2004 và cháu Hà Trần Sang A, sinh ngày 03/11/2010 hiện hai cháu đang sống cùng mẹ tại xã L, Đ, Quảng Bình, chị H có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu Đ và A, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 10.000.000đồng.

Về tài sản chung: chị H trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về phía anh Hà Thanh H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã hai lần ủy thác tư pháp ra nước ngoài thông qua Cơ quan đại diện của Việt Nam tại Vương quốc Anh để yêu cầu cơ quan này tống đạt các văn bản tố tụng và thu thập lời khai đối với anh Hà Thanh H nhưng đến nay không thu được kết quả. Ngày 24/11//2017 Toà án tiếp tục gửi văn bản yêu cầu niêm yết công khai tại trụ sở và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Cơ quan Đại sứ quán Việt Nam tại Anh, đồng thời thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài tiếng nói Việt Nam.

Ngày 02 tháng 3 năm 2018 Hệ phát thanh đối ngoại quốc gia Đài tiếng nói Việt Nam đã gửi cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình tài liệu về việc đã thông báo trên kênh thông tin dành cho người nước ngoài các nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ án ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh H và anh Hà Thanh H.

Ngày 12 tháng 4 năm 2018 Tòa án tỉnh Quảng Bình đã có Công văn về việc Đề nghị thông báo việc đã thực hiện tống đạt văn bản tố tụng đến Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Anh nhưng cơ quan này không có văn bản trả lời.

Đối với hai cháu Hà Tiến Đ và Hà Trần Sang A: Tòa án đã hỏi ý kiến của các cháu, các cháu có đơn trình bày: có nguyện vọng được ở với mẹ của cháu là chị H nếu bố mẹ cháu ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Trong quá trình giải quyết vụ án việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ, đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của họ.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thanh H, xử cho chị Trần Thị Thanh H được ly hôn vắng mặt anh Hà Thanh H theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về con chung: Chấp nhận nguyện vọng của chị Trần Thị Thanh H, giao haicháu Hà Tiến Đ và cháu Hà Trần Sang A cho mẹ cháu là chị Trần Thị Thanh H nuôi dưỡng anh Hà Thanh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án; lời trình bày của đương sự đã được thẩm tra tại phiên tòa nghe ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Theo thông tin cung cấp của Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ công an thì anh Hà Thanh H đã sử dụng hộ chiếu số B 3490016 xuất cảnh ngày 09/5/2010 qua cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, hiện chưa thấy thông tin nhập cảnh, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 khoản 3 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự .

[1.2]. Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Toà án cho đương sự ở nước ngoài theo quy định tại Điều 474 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Căn cứ khoản 3 Điều 474, khoản 5 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Hà Thanh H.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Tại phiên tòa chị Trần Thị Thanh H vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với anh Hà Thanh H. Xét thấy, chị Trần Thị Thanh H và anh Hà Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại Việt Nam được 06 năm thì anh Hà Thanh H đi xuất khẩu lao động. Hiện tại, cả chị Trần Thị Thanh H và anh Hà Thanh H đều không thể hiện mong muốn quyết tâm liên lạc và hàn gắn tình cảm, mỗi người có một cuộc sống riêng, bỏ mặc không quan tâm đến nhau kể cả vật chất lẫn tinh thần. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung thực tế không tồn tại từ nhiều năm nay, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Thanh H là hoàn toàn phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Hà Thanh H và chị Trần Thị Thanh H có hai con chung là cháu Hà Tiến Đ, sinh ngày 10/3/2004 và cháu Hà Trần Sang A, sinh ngày 03/11/2010, hiện đang sinh sống cùng chị Huyền các cháu có nguyện vọng được ở với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn.

Xét thấy hiện tại anh Hà Thanh H đang cư trú ở nước ngoài, nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu Hà Tiến Đ và Hà Trần Sang A của chị H là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và khả năng nuôi dưỡng con chung, hai cháu Hà Tiến Đ và Hà Trần Sang A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ là chị H nếu bố mẹ ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần căn cứ vào ý kiến của các cháu và nguyện vọng của chị H để giao hai cháu Hà Tiến Đ và Hà Trần Sang A cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Buộc anh Hà Thanh H đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Chị Trần Thị Thanh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; anh Hà Thanh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 153, 474, 477, 479 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Áp dụng các Điều: 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị Thanh H được ly hôn anh Hà Thanh H.

2.Về quan hệ con chung: Giao cháu Hà Tiến Đ sinh ngày 10/3/2004 và cháu Hà Trần Sang A, sinh ngày 03/11/2010 cho chị Trần Thị Thanh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hà Thanh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 4.000.000 đồng kể từ tháng 9 năm 2018 cho đến khi hai con Hà Tiến Đ và Hà Trần Sang A đủ 18 tuổi.

Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền thăm nom và chăm sóc con chung. Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên, anh H và chị H đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

3. Về quan hệ tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4.Về án phí:

- Chị Trần Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng tiền lệ phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và lệ phí ủy thác đã nộp tại biên lai số 0000091 ngày 07/7/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình. Ông Hà Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án sơ thẩm xử công khai, chị Trần Thị Thanh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hà Thanh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
  • Tên bản án:
    Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    14/2018/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    03/08/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HNGĐ-ST ngày 03/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:14/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về