Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ THIỆN, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 14/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 35/2019/TLST-HNGĐ ngày 06/5/2019, về việc “Ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Ksor H, sinh năm 1982

Địa chỉ: Thôn B, xã Ia P, huyện P, tỉnh Gia Lai. (Có mặt)

Bị đơn: Anh Siu K, sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn B, xã Ia P, huyện P, tỉnh Gia Lai (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 4 năm 2019, bản tự khai cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Ksor H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Siu K có thời gian tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 05/10/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Ia P, huyện P. Nhưng ngay sau khi kết hôn cuộc sống chung không hạnh phúc, nguyên nhân do anh K không lo làm ăn, hay uống rượu say về quậy phá đánh đập chị. Cứ mỗi lần say là anh K lại đánh đập chị, sự việc bạo lực gia đình diễn ra thường xuyên và kéo dài khiến chị không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Siu K.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Ksor L, sinh ngày 30/7/2008 và Ksor S, sinh ngày 18/6/2014, Chị Ksor H có nguyện vọng nuôi con chung, chị không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị Ksor H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn anh Siu K: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh K vẫn không có mặt tại Tòa án làm việc và không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Gia Lai phát biểu quan điểm về tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 93, 97, 195, 196, 197, 203, 205, 208, 209; 220 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 28, 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Ksor H được ly hôn với anh Siu K.

Về con chung: Giao 02 con chung cho chị Ksor H nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành xác minh anh K thường xuyên đi khỏi nơi cư trú nên không thể tống đạt trực tiếp được, Tòa án đã tống đạt niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh K vẫn không đến Tòa án làm việc cũng như phiên tòa lần thứ nhất phải hoãn; mở phiên tòa xét xử lần thứ hai theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hôn nhân: Chị Ksor H và anh Siu K kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ia P, huyện P, tỉnh Gia Lai vào ngày 05/10/2016; quan hệ hôn nhân của chị Ksor H và anh Siu K là hợp pháp.

Quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa chị H và anh Siu K diễn ra thường xuyên, trầm trọng và kéo dài, nguyên nhân là do anh K thường suyên uống rượu say, rồi về đánh đập chị H. Sự việc bạo lực gia đình diễn ra thường xuyên, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Siu K là có cơ sở.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Ksor L, sinh ngày 30/7/2008 và Ksor S, sinh ngày 18/6/2014, Chị Ksor H có nguyện vọng nuôi con chung, chị không yêu cầu cấp dưỡng. Hiện nay con chung đang sống cùng chị H, còn anh K thường xuyên đi khỏi nơi cư trú. Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Nên yêu cầu về nuôi con của chị H được chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét do chị H không yêu cầu.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Ksor H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, 39, 147, 170; khoản 2 Điều 227; Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 54; Điều 56; Điều 57; Điều 81, 82,83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ksor H Về hôn nhân: Chị Ksor H được ly hôn với anh Siu K Về con chung: Giao 02 con chung là Ksor L, sinh ngày 30/7/2008 và Ksor S, sinh ngày 18/6/2014 cho chị Ksor H là người trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con thành niên và tự lập được hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi mình. Anh Siu K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và áp dụng việc cấp dưỡng nuôi con chung; anh Siu K có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Ksor H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006295 ngày 17 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Gia Lai. Chị Ksor H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (23/8/2019), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị đơn anh Siu K vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yêt để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:14/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Thiện - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về