Bản án 14/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 14/2019/HS-ST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 03 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1.Lê Văn H; tên gọi khác: Không, sinh năm 1978 tại huyện Th, Thành Phố Hà Nội; nơi cư trú: Tiểu khu 67, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D, sinh năm 1950 và bà Đỗ Thị Ch, sinh năm 1952 bị cáo có vợ là Hoàng Thị V, sinh năm 1976 và 03 con; Tiền án: Không; tiền sự: không

Bị bắt giam giữ ngày 17/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2.Mùi Văn H; tên gọi khác: Không, sinh năm 1982 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùi Văn D, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1960 bị cáo có vợ là Bùi Thị Th, sinh năm 1984 và 02 con; Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 23/02/2016 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 26/12/2017 Mùi Văn H có giấy chứng nhận chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị bắt giam giữ ngày 17/12/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị V, sinh năm 1976; nơi cư trú: Tiểu khu 67, thị trấn Nông Trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Hà Văn Ch, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 50 phút ngày 17/12/2018, tổ công tác công an huyện V làn nhiệm vụ tại bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La, tiến hành kiểm tra xe máy BKS: 26G1-18555 do Lê Văn H điều khiển phía sau chở Mùi Văn H. Khi tổ công tác vừa dừng xe thì Lê Văn H vứt 02 gói nilon màu xanh bên trong đựng chất bột màu trắng xuống đường thì bị tổ công tác phát hiện và yêu cầu Lê Văn H nhặt lên để kiểm tra. Lê Văn H và Mùi Văn H cùng khai nhận đó là 02 gói heroine của Lê Văn H và Mùi Văn H vừa mua, mục đích mang về cùng nhau sử dụng.

Tang vật thu giữ gồm: 02 gói nilon màu xanh bên trong đựng đựng chất bột màu trắng. 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius màu sơn đen BKS: 26G1-185.55. 01 chứng minh nhân dân số 050852918 mang tên Lê Văn H.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng số chất bột màu trắng đựng trong 02 gói nilon thu giữ của Lê Văn H và Mùi Văn H có khối lượng 0,24 gam, lấy 0,03 gam làm mẫu giám định ký hiệu HH; gói thứ 02 có khối lượng 0,1 gam, lấy 0,02 gam làm mẫu giám định ký hiệu HH2. Các mẫu giám định HH, HH2 được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại ma túy, khối lượng ma túy.

Tại kết luận giám định số: 102 ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám định ký hiệu HH, HH2 là ma túy; loại heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,34 gam, loại heroine”.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H mỗi bị cáo từ 01(một) năm tù đến 02 (hai) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,29 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lê Văn H; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùi Văn H;

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V trả lại cho Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị V 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius màu sơn đen BKS: 26G1-185.55 và 01 chứng minh nhân dân số 050852918 mang tên Lê Văn H.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo Lê Văn H: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Ý kiến của bị cáo Mùi Văn H: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo Lê Văn H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo Mùi Văn H nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Lê Văn H, Mùi Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 102 ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Lời khai của người chứng kiến anh Hà Văn Ch, Bản tự khai, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 17/12/2018, các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H đã có hành vi mua 0,34 gam heroine mục đích tàng để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Bị cáo Lê Văn H là người khởi sướng, rủ rê bị cáo Mùi Văn H đi mua ma túy để sử dụng, trực tiếp dùng phương tiện chở bị cáo Mùi Văn H và là người đưa tiền cho Mùi Văn H mua ma túy. Bị cáo Mùi Văn H là người trực tiếp giao dịch mua ma túy để cùng Lê Văn H sử dụng nên là đồng phạm; áp dụng Điều 17, 58 Bộ luật hình sự về đồng phạm đối với các bị cáo. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nhưng xét vai trò của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy bị cáo Lê Văn H giữ vai trò lớn hơn thể hiện qua việc khởi sướng, rủ rê, lôi kéo, trực tiếp dùng phương tiện và tiền để bị cáo Mùi Văn H thực hiện mua ma túy.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

-Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo đều biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội do bản thân nghiện ma túy. Các bị cáo đều đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sau khi hết thời gian cai nghiện lại tiếp tục tàng trữ ma túy để xử dụng nên đều là người có nhân thân xấu. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy cac bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Lê Văn H, Mùi Văn H mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết tại bản P, xã V, huyện V. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra, buộc Lê Văn H, Mùi Văn H phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy thu giữ.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,29 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lê Văn H, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùi Văn H là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius màu sơn đen BKS: 26G1-185.55 là tài sản hợp pháp của Chị Hoàng Thị V, chiếc xe là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, việc bị cáo dùng xe đi mua ma túy chị V không biết nên ngày 23/01/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại cho chị Hoàng Thị V 01 chiếc xe máy trên là có căn cứ. Đối với 01 chứng minh nhân dân số 050852918 mang tên Lê Văn H, Cơ quan điều tra đã trả cho chị Hoàng Thị V, tại phiên tòa bị cáo nhất trí để chị Hoàng Thị V quản lý chứng minh nhân dân số 050852918 của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự:

1.Tuyên bố các bị cáo Lê Văn H, Mùi Văn H phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 17 (mười bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).

Xử phạt bị cáo Mùi Văn H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,29 gam heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lê Văn H. 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Mùi Văn H.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện V trả lại cho Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị V 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius màu sơn đen BKS: 26G1-185.55 và 01 chứng minh nhân dân số 050852918 mang tên Lê Văn H.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về