Bản án 142/2017/HSPT ngày 13/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 142/2017/HSPT NGÀY 13/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 13 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2017/HSPT ngày 26 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị V. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 17/04/2017 của Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị V, sinh năm 1972; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: nông; trình độ văn hóa: lớp 3/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn P (đã chết) và bà Lương Thị K (đã chết); có chồng là Trần Ngọc Q, sinh năm 1984; có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 02/6/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm xử phạt 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 10/01/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 06 (sáu) tháng từ về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ ngày 27/11/2016, Nguyễn Thị V điều khiển xe mô tô biển số 76U1-069.96 từ nhà tại thôn V, xã Đ đến khu vực xã ĐL mua chuối nhưng thực chất là tìm nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến trước nhà bà Lương Thị Ngọc A, thấy nhà bà A mở cửa nhưng không có người trong nhà, V đi vào phòng khách, phát hiện có 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime hiệu SM-G530H/DS màu trắng của chị Nguyễn Thị Minh N, là bạn của con trai bà A để trên tủ quần áo tại phòng khách thì V lấy xuống bỏ vào túi quần rồi đi ra. V tiếp tục điều khiển xe đến thôn L, xã Đ, lúc này khoảng 14 giờ cùng ngày, phát hiện nhà chị Trần Ngọc Dạ T cửa mở, chị T ngủ trên giường bên cạnh để 01 điện thoại Sony XPERIA D2502 màu trắng, V lấy điện thoại rồi bỏ đi. V điều khiển xe qua thôn A, xã ĐT, cũng với thủ đoạn trên, V Vào nhà bà Hồ Thị T phát hiện nhà bà T không có người ở, V trộm cắp 01 can nhựa chứa 10 lít dầu phộng, trên đường đem đi tiêu thụ thì bị người dân phát hiện và thông báo cho Công an xã ĐT đến dẫn giải về trụ sở làm việc. Qua đấu tranh, Nguyễn Thị V đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime hiệu SM-G530H/DS màu trắng có giá trị 1.200.000 đồng; 01 điện thoại Sony XPERIA D2502 màu trắng đã qua sử dụng có giá trị 2.200.000 đồng; 01 can nhựa chứa 10 lít dầu phộng có giá trị 1.000.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị V trộm cắp là 4.400.000 đồng.

Với nội dung vụ án như trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Đ đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo.

Vào ngày 26/4/2017, bị cáo Nguyễn Thị V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Hành vi bị cáo Nguyễn Thị V lén lút chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, có tổng giá trị 4.400.000 đồng đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự như án sơ thẩm đã quy kết. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân để làm căn cứ xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp thêm tình tiết mới: bị cáo đang bị bệnh bướu cổ và suy tim rung nhĩ, đái tháo đường. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xử phạt về tội phạm cùng tính chất nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội nên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Bị cáo không tranh luận, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại  phiên  tòa  phúc  thẩm,  bị  cáo  Nguyễn  Thị  V  khai  nhận:  Vào  ngày 27/11/2016, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của những người bị hại với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.400.000 đồng. Cụ thể: chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Minh N 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime hiệu SM-G530H/DS màu trắng trị giá 1.200.000 đồng; chiếm đoạt của chị Trần Ngọc Dạ T 01 điện thoại Sony XPERIA D2502 màu trắng trị giá 2.200.000 đồng và chiếm đoạt của bà Hồ Thị T 10 lít dầu phộng trị giá 1.000.000 đồng, trên đường đem tài sản đi tiêu thụ thì bị bắt giữ.

Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, có tổng giá trị 4.400.000 đồng nên bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 17/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Quảng Nam kết án bị cáo Nguyễn Thị V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; đồng thời cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xem xét nhân thân để làm căn cứ xử phạt bị cáo Nguyễn Thị V 09 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp thêm tình tiết mới: bị cáo đang bị bệnh bướu cổ, suy tim rung nhĩ và đái tháo đường. Tuy nhiên xét bị cáo có nhân thân xấu: đã 02 lần bị xử phạt về tội phạm cùng tính chất nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà vẫn tiếp tục phạm tội nên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp và không nặng, đáp ứng được yêu cầu giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng Hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị V 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Thị V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (13/7/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2017/HSPT ngày 13/07/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:142/2017/HSPT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về