Bản án 142/2019/HC-PT ngày 27/08/2019 về khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 142/2019/HC-PT NGÀY 27/08/2019 VỀ KHIẾU KIỆN CÁC QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 27 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số 48/2019/TLPT-HC ngày 15 tháng 01 năm 2019 về việc “Khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 56/2018/HC-ST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 935/2019/QĐ-PT ngày 08 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Bà Trà Thị N - Sinh năm: 1957

Trú tại: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; Giấy chứng minh nhân dân số: 211229661, cấp ngày: 7/6/2008 tại Công an tỉnh Bình Định; trú tại: Xã H, huyện H, tỉnh Bình Định; theo Hợp đồng ủy quyền công chứng số 834, ngày 3/2/2018 Văn phòng Công chứng H, Bình Định; có mặt tại phiên tòa.

*Người bị kiện:

 1. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T2 – Giám đốc, vắng mặt.

Ông T2 có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 22/8/2019.

2. Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Cao Thanh T3 – Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chí C – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định, vắng mặt; ông C có đơn xin xét xử vắng mặt. (Theo Giấy ủy quyền số 23/GUQ-UBND ngày 03/10/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định)

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

 1. Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Thái Văn B – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Anh T4, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định, vắng mặt; ông T có đơn xin xét xử vắng mặt. (Theo Giấy ủy quyền số 13/GUQ-UBND ngày 23/10/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định)

2. Anh Nguyễn T – Sinh năm: 1979; vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị Kim T1 – Sinh năm: 1983; vắng mặt.

Đồng trú tại: tỉnh Lâm Đồng.

4. Anh Nguyễn A – Sinh năm: 1981; vắng mặt.

Trú tại: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Trà Thị N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, người khởi kiện bà Trà Thị N trình bày:

Tại thời điểm Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định (viết tắt là UBND huyện H) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 ngày 02/8/1997 thì hộ ông Nguyễn A1 gồm có 05 người: Ông Nguyễn A1, bà Trà Thị N, anh Nguyễn T, anh Nguyễn A, chị Nguyễn Thị Kim T1.

Ông Nguyễn A1 chết năm 2006, sau đó đến năm 2016, anh Nguyễn T, anh Nguyễn A, chị Nguyễn Thị Kim T1 làm hợp đồng tặng cho toàn bộ quyền sử dụng các thửa đất số 189 (1), 1088Đ, 1228A và 190, tờ bản đồ số 4 tại xã H, huyện H, tỉnh Bình Định cho bà Trà Thị N.

Ngày 14/8/2017, thửa đất số 189, tờ bản đồ số 4 được cấp đổi thành thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11 (Bản đồ VN 2000) và thửa đất số 190, tờ bản đồ số 4 được cấp đổi thành thửa đất số 1253, tờ bản đồ số 11 (Bản đồ VN 2000).

Ngày 11/01/2018, bà N đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 và CS01766 đối với các thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11 và thửa đất số 1253, tờ bản đồ số 11.

Việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên đối với thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11 là không đúng; bởi lẽ:

Theo Giấy chứng nhận ngày 01/10/1984 do Hội đồng đăng ký ruộng đất xã H, huyện H, tỉnh Bình Định đã chứng nhận cho hộ gia đình ông Nguyễn A1 thửa đất 189, tờ bản đồ số 88 tọa lạc tại xã H, huyện H, tỉnh Bình Định có diện tích 608m2 (trong đó 500m2 đất thổ cư và 108m2 đất Nhà nước quản lý).

Năm 1997, không hiểu lý do gì mà UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 đối với thửa đất nói trên diện tích chỉ có 88m2 đất ở. Do không hiểu biết nên vợ chồng bà N không kiểm tra lại và cất giấy chứng nhận nói trên. Sau khi nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01767 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp ngày 11/01/2018 thì bà N mới phát hiện có sự nhầm lẫn về diện tích đất ở của thửa đất 189, tờ bản đồ số 88 (nay là thửa 566, tờ bản đồ số 11); cụ thể diện tích đất ở bà N được cấp là 88m2 chứ không phải là 500m2 đất thổ cư như Giấy chứng nhận ngày 01/10/1984 do Hội đồng đăng ký ruộng đất xã H, huyện H, tỉnh Bình Định đã chứng nhận cho hộ gia đình ông Nguyễn A1.

Gia đình bà N quản lý, sử dụng ổn định các thửa đất nói trên từ trước năm 1984 cho đến nay, không có ai tranh chấp và không có mua bán, tặng cho bất kỳ ai và hiện trạng thửa đất vẫn giữ ổn định cho đến nay.

Do đó, bà Trà Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N.

Bên cạnh các đơn khởi kiện vụ án hành chính, bản sao các quyết định hành chính bị kiện, bà Trà Thị N còn cung cấp cho Tòa án một số tài liệu, chứng cứ khác có liên quan đến yêu cầu khởi kiện. Ngoài ra, bà N không tự mình thu thập được bất kỳ chứng cứ nào khác và không có yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

2. Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định là ông Đặng Trung T – Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định trình bày:

Ngày 13/7/2017, bà Trà Thị N nộp hồ sơ cấp đổi Giấy chứng nhận đối với thửa đất số 189 (1), tờ bản đồ số 04, diện tích 88m2 đất ở tọa lạc tại xã H, huyện H, tỉnh Bình Định (nay là thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11) tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện H.

Hồ sơ gồm: Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 17/7/2017; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 tại thửa đất nói trên đã được Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Định – Chi nhánh huyện H (Viết tắt là Chi nhánh VPĐKĐĐ H) xác nhận thay đổi chủ sử dụng đất (chỉnh lý) sang cho bà N ngày 25/8/2016.

Ngày 28/6/2017, Chi nhánh VPĐKĐĐ H phối hợp với Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định (Viết tắt là UBND xã H), chủ sử dụng đất và các hộ dân liền kề tiến hành đo đạc, kiểm tra hiện trang thửa đất, diện tích là 360,7m2, tăng 272m2 đất so với giấy chứng nhận đã cấp. Theo Biên bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 28/6/2017 xác định “… Ranh giới được chủ hộ xác định có sự chứng kiến của địa chính xã và các hộ dân liền kề…”.

Căn cứ khoản 5 Điều 98 Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Điều 76 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; khoản 1 Điều 10 Thông tư số 25/2014/TT- BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính và theo xác nhận của UBND xã H tại Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của bà N “Sự thay đổi đường ranh giới thửa đất kể từ khi cấp giấy chứng nhận đến nay: Diện tích tăng là do trước đây cấp giấy chứng nhận trừ chỉ giới giao thông, ranh giới sử dụng ổn định không có tranh chấp” thì ngày 11/01/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 cho bà N đối với thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, diện tích 360,7m2 tọa lạc tại xã H, huyện H, tỉnh Bình Định (trong đó 88m2 đất ở và 272,7m2 đất trồng cây lâu năm).

Từ những căn cứ nói trên, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên là đúng quy định; do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định không đồng ý với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N.

Ngoài ra, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định không có trình bày hoặc yêu cầu nào khác.

3. Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định là ông Nguyễn Chí C – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định trình bày:

Theo hồ sơ địa chính năm 1984: Thực hiện Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước và Chỉ thị số 299-TTg ngày 10/11/1980 của Hội đồng Chính phủ về công tác đo đạc, đăng ký, thống kê ruộng đất trong cả nước thì thửa đất bà Trà Thị N khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện tại thửa đất số 189, tờ bản đồ số 10, diện tích 608m2, loại đất: thổ cư (Ký hiệu: T), tên chủ sử dụng đất: Ông Nguyễn A1 (Theo Sổ Mục kê ruộng đất).Thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp thì thửa đất số 189, tờ bản đồ số 10, diện tích 608m2 chỉnh lý thành tờ bản đồ số 04. Ông Nguyễn A1 có đơn không ghi ngày tháng năm, xin đăng ký quyền sử dụng đất tại các thửa đất, trong đó có thửa đất số 189 (1), tờ bản đồ số 04, diện tích 88m2, loại đất: đất ở, được Hội đồng đăng ký ruộng đất xã H thống nhất đề nghị UBND huyện H. Ngày 02/8/1997, UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ 01405 QSDĐ/A8 cho hộ ông Nguyễn A1 tại các thửa đất, trong đó có thửa đất số 189(1), tờ bản đồ số 04, diện tích 88m2 đất ở, xã H.

Theo bản đồ VN 2000: Thửa đất số 189, tờ bản đồ số 04 (bản đồ năm 1997), diện tích 608m2 được đo đạc, chỉnh lý thành thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.039,2m2.

Thực hiện dự án đầu tư xây dựng mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Km 1125-Km 1153, huyện H, tỉnh Bình Định. Thửa đất số 189 (1), tờ bản đồ số 04 (bản đồ năm 1997), bản đồ VN 2000 là thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, xã H bị ảnh hưởng một phần do giải phóng mặt bằng. Ngày 31/12/2014, UBND huyện H ban hành Quyết định số 13267/QĐ-UBND, thu hồi 186,4m2 đất trồng cây lâu năm của ông Nguyễn A1 (chết) nay là bà Trà Thị N đại diện thuộc một phần thửa đất số 189 (1), tờ bản đồ số 04 (bản đồ năm 1997), nay là thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11 (bản đồ VN-2000), xã H.

Ngày 15/8/2016, bà Trà Thị N, ông Nguyễn T, ông Nguyễn A và bà Nguyễn Thị Kim T1 lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản của ông Nguyễn A1 và Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng các thửa đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ 01405 QSDĐ/A8 nêu trên cho bà Trà Thị N được Văn phòng Công chứng H công chứng, chứng thực. Ngày 25/8/2016, Chi nhánh VPĐKĐĐ H đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho bà Trà Thị N.

Ngày 13/7/2017, bà Trà Thị N có đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất. Ngày 11/01/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ CS01767 tại thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, diện tích 360,7m2 (trong đó 88m2 đất ở, 272,7m2 đất trồng cây lâu năm) cho bà Trà Thị N.

Việc UBND huyện H thực hiện việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 ngày 02/8/1997 cho bà Trà Thị N là đúng quy định; do đó, UBND huyện H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà N về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên.

Ngoài ra, UBND huyện H không có trình bày hoặc yêu cầu nào khác.

4. Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định là ông Trương Anh T – Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Bình Định trình bày:

UBND xã H thống nhất như nội dung trình bày của UBND huyện H và UBND xã H không đồng ý đối với yêu cầu của bà Trà Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N.

Ngoài ra, UBND xã H không có trình bày hoặc yêu cầu độc lập nào khác.

5. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn T, anh Nguyễn A, chị Nguyễn Thị Kim T1 thống nhất trình bày:

Anh Nguyễn T, anh Nguyễn A, chị Nguyễn Thị Kim T1 là con của ông Nguyễn A1 và bà Trà Thị N; anh T, anh A, chị T1 thống nhất với nội dung trình bày và yêu cầu khởi kiện của bà N.

Ngoài ra, anh Nguyễn T, anh Nguyễn A, chị Nguyễn Thị Kim T1 không có trình bày hoặc yêu cầu độc lập nào khác.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 56/2018/HC-ST ngày 19/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

- Căn cứ vào quy định tại Điều 30; Điều 32; Điều 116; điểm g, h khoản 1 Điều 143; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ vào quy định của Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính;

- Căn cứ quy định tại Điều 29 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trà Thị N về việc yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1.

2. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trà Thị N về việc yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N tại thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, diện tích 360,7m2 (đất ở 88m2, đất trồng cây hằng năm khác 272,7m2) tọa lạc tại thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/11/2018, người khởi kiện bà Trà Thị N kháng cáo Bản án hành chính sơ thẩm số 56/2018/HC-ST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định với nội dung: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H, tỉnh Đình Định cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của bà Trà Thị N vẫn giữ yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét hủy cả hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì diện tích đất thổ cư của gia đình ông Nguyễn A1 từ trước năm 1997 là 500m2, nhưng khi cấp sổ Ủy ban nhân dân huyện H chỉ cấp có 88m2 đất ở là không đúng gây thiệt cho gia đình; mặt khác số thửa là 189 nhưng ghi là 190 nên các hộ lân cận sau này có thể kiện.

Đại diện theo pháp luật người bị kiện là Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bình Định, Ủy ban nhân dân huyện H, Bình Định; người liên quan Ủy ban nhân dân xã H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt đề nghị Tòa phúc thẩm xét xử theo pháp luật.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Tòa án phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính;

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết và ban hành bản án hành chính sơ thẩm là đúng pháp luật, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính bác yêu cầu kháng cáo của bà Trà Thị N giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.

Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bà Trà Thị N về yêu cầu hủy các Giấy chứng nhận đã cấp cho hộ Nguyễn A1 và bà N, thấy:

[1.1] Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H, tỉnh Đình Định cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 ghi rõ diện tích đất ở tại thửa 189 (1), tờ bản đồ số 4 là: 88m2 đất ở, diện tích còn lại là đất lúa và cây lâu năm, vợ chồng ông A1 bà N đã nhận nhưng không có khiếu nại gì, bà N cho rằng vợ chồng đã nhận nhưng không kiểm tra lại; tuy nhiên, khi ông A1 mất bà N cùng các con lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Văn phòng công chứng H chứng thực ngày 15/8/2016; tại Đơn đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (BL85) bà Trà Thị N đã tự kê khai đăng ký diện tích đất ở là: 88m2 trên diện tích 1412m2 gồm lúa 712m2 và đất màu 612m2. Đến ngày 4/6/2018, bà N có đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là đã quá thời hiệu quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính; mặt khác, giấy chứng nhận nói trên đã bị thu hồi để cấp đổi lại giấy chứng nhận mới nên thực tế không còn; do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H, tỉnh Đình Định cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 là có căn cứ.

[1.2] Về kháng cáo yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N. Ngày 17/7/2017, bà Trà Thị N nộp hồ sơ cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H, tỉnh Đình Định cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 và đã kê khai thông tin thửa đất 189, tờ bản đồ số 4 diện tích đất ở là 88m2 thành thửa đất mới là thửa 566-vn2000, tờ bản đồ số 11-vn2000 với diện tích là 360,7m2 trong đó có 88m2 đất ở; do có sự thay đổi về diện tích so với giấy chứng nhận cũ Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện H đã tiến hành lập Biên bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 28/6/2017 và Biên bản xác định ranh mốc giới thửa đất ngày 29/6/2017 có bà N tham gia và ký vào biên bản; ngày 11/1/2018 Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bình Định đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS01767 với diện tích đất là 360,7m2, trong đó: diện tích đất ở là 88m2, còn lại là đất trồng cây lâu năm phù hợp với Bản kê khai đăng ký và các biên bản mô tả về ranh giới, mốc giới thửa đất có bà N tham gia ký tên; việc cấp đổi Giấy chứng nhận trên đúng với quy định Điều 98 Luật đất đai 2013, Điều 76 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Do đó, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận trên của bà N là không có căn cứ.

[2] Tòa án sơ thẩm đã đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà N về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do UBND huyện H, tỉnh Đình Định cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1 và bác yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N là có căn cứ đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bà Trà Thị N không cung cấp thêm chứng cứ nào mới khác; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bà N giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Bà Trà Thị N phải chịu án phí hành chính phúc thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lại thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003538 ngày 20/11/2018 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ vào quy định của Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác kháng cáo của bà Trà Thị N và giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm, cụ thể:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trà Thị N về việc yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01405 QSDĐ/A8 do Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Bình cấp ngày 02/8/1997 cho hộ ông Nguyễn A1.

2. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Trà Thị N về việc yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS01767 ngày 11/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thực hiện việc cấp đổi đối với bà Trà Thị N tại thửa đất số 566, tờ bản đồ số 11, diện tích 360,7m2 (đất ở 88m2, đất trồng cây hằng năm khác 272,7m2) tọa lạc tại thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

3. Về án phí:

- Án phí hành chính sơ thẩm bà Trà Thị N phải chịu: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); được trừ vào tiền tạm ứng án phí hành chính đã nộp theo Biên lai thu số 08190 ngày 24/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

- Án phí hành chính phúc thẩm bà Trà Thị N phải chịu: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0003538 ngày 20/11/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định. Bà Trà Thị N đã nộp xong án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

555
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HC-PT ngày 27/08/2019 về khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu:142/2019/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 27/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về