Bản án 142/2019/HS-PT ngày 03/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 142/2019/HS-PT NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại Nhà văn hóa tổ 10, phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 113/2019/TLPT-HS ngày 19 tháng 8 năm 2019, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N đối với bản án hình sự sơ thẩm số 94/2019/HSST ngày 11/07/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thành N, tên gọi khác: Không có; Sinh năm 1991; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 30, phường TT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M, và bà Dương Thị T; vợ, con: chưa có; Tiền sự: Không có.

Tiền án: 02.

- Tại bản án số 31/2015/HSST ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Tại Bản án số 24/2017/HSST ngày 20/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, (bản án này xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm), chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/11/2018 chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Nhân thân:

- Ngày 10/12/2006, bị Công an phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên xử phạt 75.000đồng về hành vi “Trộm cắp vặt” tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 129/QĐ-XPHC.

- Ngày 15/5/2007, bị Chủ tịch UBND thành phố Thái Nguyên quyết định đưa vào trường giáo dưỡng số 2, huyện Yên Mô, Ninh Bình thời hạn 24 tháng, do đã có hành vi nhiều lần gây rối trật tự công cộng và trộm cắp tài sản tại quyết định số: 1097/QĐ-UBND (đã chấp hành xong)

- Ngày 17/9/2009, bị Công an phường Trung Thành xử phạt 75.000đồng về hành vi “Trộm cắp vặt”, tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 142/QĐ-XPHC (đã chấp hành xong ngày 05/10/2009)

- Ngày 21/5/2010, bị Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục Thanh Hà, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc thời hạn 24 tháng tại Quyết định số:1152/QĐ-UBND (đã chấp hành xong)

- Ngày 02/11/2012, bị Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục Thanh Hà, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 2569/QĐ-UBND (đã chấp hành xong)

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/4/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án này còn có bị cáo Nguyễn Văn Ch và người bị hại không kháng cáo và không bị kháng nghị, vắng mặt do Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 09/4/2019, Tổ công tác của Công an thị xã Phổ Yên tuần tra làm nhiệm vụ tại khu vực xóm C, xã NT, thị xã PY, phát hiện Nguyễn Văn Ch đang điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONLEI màu xanh, Biển kiểm soát 98F7 – 1800, nghi vấn là một trong hai đối tượng đã trộm cắp tài sản chiếc xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE màu đỏ, đen, xám Biển kiểm soát 19G1-228.64, của gia đình chị Hoàng Thị Thúy V (sinh năm 1995, hộ khẩu thường trú tại Khu 1, xã TK, huyện CK, Phú Thọ) đang dựng ở trước cửa trong nhà do vợ chồng chị thuê tại xóm C, xã NT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên. Tổ công tác Công an thị xã Phổ Yên đã truy đuổi và tạm giữ Ch cùng chiếc xe mô tô đưa về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên để đấu tranh làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Ch đã khai nhận: Ch và Nguyễn Thành N có quan hệ họ hàng với nhau và đều là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 08 giờ ngày 08/4/2019, Ch điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONLEI màu xanh biển kiểm soát 98F7-1800 chở N xuống khu vực thị xã Phổ Yên để mua ma túy sử dụng, Ch và N đi xuôi theo hướng Thái Nguyên – Hà Nội. Khi đến địa phận xóm C, xã NT, thị xã PY thì N phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE dựng ở cửa một ngôi nhà, phía bên trái đường, trên xe vẫn cắm chìa khóa ở ổ điện, N và Ch nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe, N bảo Ch quay đầu xe lại đỗ vào lề đường, N xuống xe quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi quản lý chiếc xe liền tiến đến phía chiếc xe mở khóa điện, nổ máy đi về hướng thành phố Thái Nguyên, còn Ch đi xe mô tô do Ch điều khiển trước đó theo sau. N điều khiển chiếc xe trộm cắp được đi về nhà của mình cất giấu và bàn bạc với Ch cứ để đấy xem có ai mua thì bán. Khoảng 20 giờ ngày 09/4/2019, Ch một mình tiếp tục đi đến khu vực thị xã Phổ Yên để mua ma túy thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ, Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Ngày 09/4/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ được vật chứng là chiếc xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE màu đỏ, đen, xám Biển kiểm soát 19G1-228.64 tại nhà của Nguyễn Thành N tại Tổ 30, phường TT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KLĐG ngày 10/04/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Phổ Yên kết luận: giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIRBLADE, biển kiểm soát 19G1-228.64 do Ch và N trộm cắp của gia đình chị Vân có giá trị còn lại là 26.600.000đồng (hai mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 94/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Ch, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Ngày 15/7/2019, bị cáo Nguyễn Thành N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo rút kháng cáo về phần hình phạt. Bị cáo xin miễn hình phạt bổ sung, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã nêu.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: a án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo xin rút kháng cáo về hình phạt, đề nghị xem xét miễn hình phạt bổ sung. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp, vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

[2]. Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị hại, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Do bản chất ham chơi, lười lao động và là các đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 8 giờ, ngày 08/4/2019, Nguyễn Văn Ch điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONLEI màu xanh biển kiểm soát 98F7-1800 chở Nguyễn Thành N xuống khu vực thị xã Phổ Yên để mua ma túy sử dụng. Khi đến địa phận xóm C, xã NT, thị xã PY thì N phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE của gia đình chị Vân, anh Đương dựng ở cửa nhà, phía bên trái đường theo hướng Thái Nguyên - Hà Nội, trên xe vẫn cắm chìa khóa ở ổ điện, N nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe. N bảo Ch quay lại, Ch đứng ngoài cảnh giới, N xuống xe quan sát xung quanh thấy không có ai trông coi, quản lý chiếc xe liền tiến đến phía chiếc xe mở khóa điện, nổ máy mang về nhà N cất giấu và bàn bạc xem ai mua thì bán. Khoảng 20 giờ ngày 09/4/2019, Ch một mình tiếp tục đi đến khu vực thị xã Phổ Yên để mua ma túy thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe mô tô tại nhà Nguyễn Thành N.

Giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Phổ Yên kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIRBLADE, biển kiểm soát 19G1-228.64 có trị giá 26.600.000đ (hai mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Do đó bị cáo N bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”: theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo xin rút kháng cáo về phần hình phạt tù. Bị cáo đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, việc bị cáo xin thay đổi nội dung kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 342 của Bộ luật tố tụng hình sự nên được chấp nhận. Xét kháng cáo xin miễn hình phạt bổ sung của bị cáo thấy: Bị cáo có 2 tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, ngoài ra bị cáo có nhân thân rất xấu, bị cáo đã bị xét xử và bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần cùng về hành vi trộm cắp tài sản, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo 4 năm tù, phạt bổ sung 5.000.000đ là thỏa đáng, đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin miễn hình phạt bổ sung của bị cáo.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành N, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 94/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thành N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thành N 5.000.000đồng (năm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

2. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Thành N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 94/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HS-PT ngày 03/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:142/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về