Bản án 142/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 142/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 139/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Quách Thành T, sinh ngày 06/10/1986 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 330, đường B, phường H, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Văn Phóng, sinh năm 1960 và bà Luân Thị Sao, sinh năm 1966, đều trú tại: Số 330, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có vợ: Lý Thị Minh H, sinh năm 1987 (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 2007; tiền án: có 01 tiền án (Bản án số 47/2017/HSST ngày 21/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 02 năm tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy); tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Quách Văn P, sinh năm 1960, địa chỉ: Số 330, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Anh Lương Văn T. Vắng mặt.

+ Người chứng kiến: Ông Trần Văn K. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 09 giờ 45 phút ngày 20/5/2019, Tổ công tác Công an phường H, thành phố L làm nhiệm vụ tại khu vực P 1, 2, phường H, thành phố L phát hiện Quách Thành T có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy, đã tiến hành kiểm tra và phát hiện trong lòng bàn tay phải của Quách Thành T có 01 gói giấy nhỏ màu vàng chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói giấy nhỏ màu vàng chứa chất bột màu trắng, 01 xe mô tô Honda Future biển kiểm soát 29N4-7019, 01 điện thoại Oppo đã cũ; khám xét nơi ở của Quách Thành T thu giữ 01 bộ bình nhựa có gắn ống hút nhựa.

Ti Cơ quan điều tra, Quách Thành T khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy từ năm 2012. Khoảng 08 giờ ngày 20/5/2019, Quách Thành T điều khiển xe mô tô Honda Future, biển kiểm soát 29N4-70xx của ông Quách Văn P đi từ nhà lên khu vực ngã tư thị trấn C, huyện C để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến khu vực ngã tư thị trấn C, bị cáo đưa 300.000đồng cho 01 người đàn ông đi xe ôm không rõ tên tuổi, địa chỉ nhờ đi mua ma túy hộ. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông đó quay lại đưa cho Quách Thành T 01 gói giấy nhỏ màu vàng, bên trong chứa chất ma túy. Sau đó, Quách Thành T đi đến hiệu thuốc trên đường T, phường H, thành phố L mua nước cất và bơm kim tiêm rồi gọi điện thoại cho Lương Văn T rủ cùng đến khu vực nhà hoang P 1, 2, phường H để cùng sử dụng ma túy. Tại đó, Quách Thành T lấy ½ gói ma túy pha vào nước cất, chia đều ra 02 bơm kim tiêm, Quách Thành T và Lương Văn T mỗi người sử dụng 01 chiếc. Số ma túy còn lại Quách Thành T gói lại để lần sau sử dụng. Khi vừa sử dụng ma túy xong thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang.

Ti Kết luận giám định số 182KL-PC09 ngày 24/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,106 gam (đã trừ bì).

Vi nội dung nêu trên, tại Cáo trạng số: 143/CT-VKS ngày 20/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Quách Thành T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi như trong cáo trạng là đúng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ông Quách Văn P khai: Chiếc xe mô tô Honda Future biển kiểm soát 29N4-70xx là của ông. Ngày 20/5/2019 ông không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy. Ông đã được Cơ quan điều tra trả lại xe, ông không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Quách Thành T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Quách Thành T từ 20 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/5/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy sau giám định và 01 bộ bình nhựa có gắn ống hút nhựa; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen đã qua sử dụng; đề nghị xác nhận trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Quách Văn P 01 xe mô tô Honda Future, biển kiểm soát 29N4-70xx.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Quách Thành T tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ căn cứ xác định: Ngày 20/5/2019, tại khu vực ngôi nhà hoang khu P 1, 2, phường H, thành phố Lạng Sơn, Quách Thành T có hành vi tàng trữ trái phép 0,106 gam chất ma túy để sử dụng.

[2] Căn cứ vào Kết luận giám định số 182/KL-PC09 ngày 24/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Quách Thành T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng vì nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền sự, có 01 tiền án. Do vậy, xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Bản án số 47/2017/HSST ngày 21/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi bị bắt giữ, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh, bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, sống phụ thuộc vào gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy còn lại sau giám định cùng 01 bộ bình nhựa có gắn ống hút nhựa là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại hiệu Oppo màu đen, đã cũ, bị cáo đã dùng để liên lạc với Lương Văn T đến cùng sử dụng ma túy, do vậy cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước. Đối với chiếc xe máy Honda Future biển kiểm soát 29N4- 70xx bị cáo sử dụng để đi mua ma túy là của ông Quách Văn P (bố của bị cáo). Ông Quách Văn P không biết bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy, trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Quách Văn P.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng, về việc thu thập, bảo quản tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[12] Đối với người đàn ông đi xe ôm đi mua ma túy hộ bị cáo do không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[13] Bị cáo bị kết tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quách Thành T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Quách Thành T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 20/5/2019.

Kng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định và 01 (một) bộ bình nhựa có gắn ống hút nhựa.

3.2. Tịch thu, hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại hiệu Oppo màu đen đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ.

(Vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/8/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Quách Thành T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo đối với phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/9/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 142/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:142/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về