Bản án 143/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU

BẢN ÁN 143/2018/HS-ST NGÀY 24/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 112/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Tý A, tên gọi khác: Tý L; sinh năm 1993 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị H; có vợ: Trần Thị H; có 2 con: Con lớn sinh năm 2013,con nhỏ sinh năm 2018; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án số 158/2013/HSPT ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tuyên phạt Nguyễn Văn Tý A 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điều 136 Bộ luật hình sự (chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 04/02/2017);

Về nhân thân: Tại bản án số 102/2017/HS-ST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã tuyên phạt Nguyễn Văn Tý A 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điều 173 Bộ luật hình sự (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Văn Tý U, tên gọi khác: Không; sinh năm 1998 tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị H; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án số 23/2016/HSST ngày 28/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tuyên phạt Nguyễn Văn Tý U 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điều 138 Bộ luật hình sự 1999 (chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/10/2016).

Về nhân thân: Tại bản án số 46/2018/HSST ngày 18/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã tuyên phạt Nguyễn Văn Tý U 03 năm tù Về tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999. Hiện đang chấp hành hình phạt theo Quyết định thi hành án hình phạt tù số 89/2018/QĐ-CA ngày 22/6/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 192; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U là anh em ruột của nhau. Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31/10/2017, Tý A và Tý U rủ nhau đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. Tý A điều khiển xe mô tô BKS 60S4-1109 chở Tý U đi trên quốc lộ 51 hướng từ Bà Rịa đi thành phố Hồ Chí Minh tìm sơ hở trong quản lý tài sản để lấy trộm.

Khoảng 01 giờ ngày 01/11/2017, khi cả hai đi đến trước quán ăn “Miền B” thuộc khu phố T, thị trấn P, huyện T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thấy quán không khóa cổng, bên trong có Anh Nguyễn Đức C là nhân viên của quán đang nằm ngủ trên bàn, bên cạnh có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1 nên cả hai nảy sinh ý định lấy trộm. Tý A dừng xe máy đứng bên ngoài cảnh giới, Tý u đi vào bên trong quán đến chỗ anh C đang nằm lấy chiếc điện thoại di động nói trên rồi lên xe Tý A cả hai quay đi về lại hướng thành phố Bà Rịa. Khi đi đến một khu nhà trọ ở gần QL 51, đoạn gần ngã tư Chinphong, Tý A dừng xe máy để Tý U đi vào bên trong 1 phòng trọ không khóa cửa, lấy trộm thêm 1 điện thoại di động hiệu OPPO F1S màu đỏ rồi cả hai đi về nhà tại khu phố L thị trấn L, huyện L thì bị công an thị trấn L kiểm tra, phát hiện đưa về trụ sở làm việc. Qua làm việc, Tý A và Tý U đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tân Thành như đã nêu trên.

Tại kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG-TTHS ngày 29/11/2017 của hội đồng định giá tài sản UBND huyện Tân Thành kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1 có giá trị 3.032.400 đồng.

Đối với hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F1S mà Tý A và Tý U lấy trộm hiện chưa xác định được bị hại nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A và u. Vì vậy cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ đã tách ra ở 1 vụ án khác, khi nào có kết quả xác minh sẽ xử lý sau.

Chiếc xe mô tô BKS 60S4-1109 Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra xác định: Chiếc xe là tang vật của vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 04/10/2017 tại ấp L, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu nên cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện L thụ lý và giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 23 tháng 7 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu truy tố Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo vẫn khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Tý A từ 9 đến 12 tháng tù, bị cáo Nguyễn Văn Tý U từ 12 đến 18 tháng tù.

Tại phiên tòa các bị cáo không tranh luận gì, yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu ương hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra. Đó là phù hợp cả về thời gian, địa điểm phạm tội, đặc điểm vật chứng, phù hợp lời khai của bị hại trong quá trình điều tra vụ án; phù hợp viện dẫn của bản cáo trạng, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 01/11/2017 tại quán ăn “Miền B” ở khu phố T, thị trấn P, huyện T (nay là phường P, thị xã Phú Mỹ),tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U đã có hành vi lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Đức C 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO F1 có giá trị 3.032.400 đồng.

Hành vi chiếm đoạt kể trên của Nguyễn Văn Tý A và Nguyễn Văn Tý U đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn. Vì vậy cần xử lý nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng có xem xét:

Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này cả 02 bị cáo đã có 01 tiền án. Vì vậy phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Nhân thân và vai trò các bị cáo: Hiện bị cáo Nguyễn Văn Tý A đang chấp hành hình phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 102/2017/HSST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Bị cáo Nguyễn Văn Tý U đang chấp hành hình phạt 03 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em” của bản án số 46/2018/HSST ngày 18/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Vì vậy khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo về tội đang xét xử, sau đó phải tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại điều 56 Bộ luật hình sự là phù hợp quy định của pháp luật.

V vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn; trong đó, xác định: Nguyễn Văn Tý U là người khởi xướng, đồng thời cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại, nên phải chịu trách nhiệm chính. Nguyễn Văn Tý A là đồng phạm giúp sức, cảnh giới cho Nguyễn Văn Tý U thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn; cần giảm nhẹ 1 phần hình phạt.

Từ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy: cần phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục để trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội.

[3] Về vật chứng: Chiếc điện thoại OPPO F1 màu trắng là tài sản của bị hại cần trả lại cho chủ sở hữu.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại chỉ có yêu cầu được nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì nên không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Tý A (tên gọi khác: Tý L) và Nguyễn Văn Tý U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h và s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Tý A 09 (Chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù của bản án số 102/2017/HSST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Buộc Nguyễn Văn Tý A phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 01 năm 09 tháng (Một năm chín tháng) tù; thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2017.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h và s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tý U 01 (Một) năm tù. Tổng hợp hình phạt 03 (Ba) năm tù của bản án số 46/2018/HSST ngày 18/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999. Buộc Nguyễn Văn Tý U phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 04 (Bốn) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2017.

V vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Hoàn trả cho bị hại Nguyễn Đức C một điện thoại di động hiệu OPPO F1 màu trắng đã cũ, hiện máy không hoạt động được, không kiểm tra máy móc bên trong.

Đặc điểm chi tiết vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng; hiện các vật chứng đang nhập kho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 88 ngày 24/7/2018 giữa Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Buộc bị cáo cáo Nguyễn Văn Tý A, Nguyễn Văn Tý U mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:143/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về