Bản án 143/2018/HSST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 143/2018/HSST NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 155/2018/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2018/QĐXXST-HS ngày 11/10/2018 đối với bị cáo:

VŨ ĐÌNH PHI V, sinh ngày 24/9/1995 tại Hà Tĩnh

Trú tại: Thôn T L, ấp A Ch, xã B S, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 6/12

Dân tộc  Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam

Con ông Vũ Đình B (đã chết) và bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1977.

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn trong gia đình.

Vợ là Thái Thị Ngọc B, sinh năm 1995 (chưa đăng ký kết hôn); có 01 con sinh năm 2013.

Tiền án: Có 01 tiền án, cụ thể:

- Ngày 28/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 01/02/2018 tại Trại giam Sông Cái.

Tiền sự: Không Bị tạm giam ngày 23/7/2018. (Có mặt)

* Người làm chứng:

1/ Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 2002 (Vắng mặt) 

Địa chỉ: Ấp T B, xã H L, huyện L Ph, thành phố B R, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2/ Chị Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1986 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Nhà nghỉ S Ngh, ấp T B, xã B M, huyện Tr B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Đình Phi V là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2016. Khoảng 20 giờ ngày 22/7/2018, V sử dụng điện thoại Vivo màu đen vàng, số sim 01638.056.008 gọi điện cho người đàn ông tên Tuấn (chưa rõ lai lịch) hỏi mua ma túy, Tuấn đồng ý và hẹn V lên khu vực cây xăng K B, xã B S, huyện Tr B để bán cho V 01 gói ma túy với giá 1.200.000đ. Sau đó, V đem ma túy về phòng trọ số 07 nhà nghỉ S Ngh (địa chỉ thôn a, ấp T B, xã B M, huyện Tr B) để sử dụng cùng với Nguyễn Thị Thanh T và 02 đối tượng tên Đ, Ph (không biết tên thật và địa chỉ). Sau khi sử dụng ma túy xong thì Đ và Ph đi về còn T đi ngủ, số ma túy còn lại V chia ra thành 10 gói nhỏ và 01 gói lớn rồi bỏ vào ví để thuận tiện cho việc sử dụng. Đến 10 giờ ngày 23/7/2018, Công an huyện Tr B kiểm tra phòng trọ số 07 phát hiện số ma túy nêu trên, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với V.

Vật chứng thu giữ gồm: 14 gói nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng (01 gói ở gần cửa phòng (ký hiệu M1), 02 gói dưới chân bồn rửa mặt (ký hiệu M2) và 11 gói trong ví (ký hiệu M3), 01 cân tiểu ly, 01 điện thoại di động Vivo màu đen vàng, số sim 01638.056.008 và số tiền 1.000.000đ của V.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nêu trên. Tại bản kết luận giám định số 389/PC54-GĐMT ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng (M1 và M2) được niêm phong gửi đến giám định không tìm thấy chất ma túy và tiền chất thuộc danh mục số Nghị định 73/2018/NĐCP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

- Mẫu tinh thể màu trắng (M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 3,7498 gam, loại Methamphetamine.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Vũ Đình Phi V để điều tra, quá trình điều tra Vũ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định vụ số 389/PC54-GĐMT ngày 30/7/2018, 01 cân tiểu ly đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 điện thoại di động Vivo màu đen vàng, số sim 01638.056.008 dùng vào việc liên lạc để phạm tội đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công.

+ Đối với số tiền 1.000.000đ V không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 152/CT/VKS-TB ngày 03/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với bị cáo Vũ Đình Phi V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Xử phạt bị cáo Vũ Đình Phi V từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định vụ số 389/PC54-GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai ngày 30/7/2018 và 01 cân tiểu ly. Tịch thu sung công 01 điện thoại di động Vivo màu đen vàng, số sim 01638.056.008; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đình Phi V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã có đủ căn cứ kết luận: Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 23/7/2018, tại phòng trọ số ab nhà nghỉ Song Nghi ở thôn a, ấp T B, xã B M, huyện Tr B, Công an huyện Trảng Bom phối hợp Công an xã B M tiến hành kiểm tra và thu giữ trong ví của bị cáo 11 gói nylon hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng, do bị cáo mua và cất giấu để sử dụng. Kết luận giám định thể hiện: Mẫu tinh thể màu trắng (M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 3,7498 gam, loại Methamphetamine. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Pháp luật nghiêm cấm hành vi tàng trữ ma túy dưới mọi hình thức. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Năm 2016, bị cáo đã bị xét xử về hành vi tàng trữ ma túy và bị xử phạt 02 năm tù, chấp hành án xong ngày 01/02/2018, đến ngày 23/7/2018 lại tiếp tục phạm tội. Điều này thể hiện bị cáo là người thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và là đối tượng khó cải tạo, giáo dục. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy cần có mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3]. Khi lượng hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, cần áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ được áp dụng quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định số 389/PC54-GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai ngày 30/7/2018, 01 cân tiểu ly cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động Vivo màu đen vàng, 01 sim điện thoại có số seri 8984 04800 00091 64855 cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6]. Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[7]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt và việc xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đình Phi V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Đình Phi V 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2018.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong 01 phong bì đóng dấu niêm phong số 389/PC54-GĐMT ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai và 01 cân tiểu ly.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Vivo màu đen vàng, 01 sim điện thoại có số seri 8984 04800 00091 64855.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/10/2018).

2. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2018/HSST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về