Bản án 148/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại bãi đất trống xã Lê Minh Xuân, huyệnBình Chánh, Thành phố Hồ Chí  Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 145/2017/HSST ngày 02 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dƣơng Tâm T (tên gọi khác: TE)

Giới tính: Nam; sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ĐKHKTT: Số D1/18 ấp 4, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông Dương Văn B và bà Nguyễn Ngọc L; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/4/2017 đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Bà Lê Lan K, sinh năm 1980 – (vắng mặt)

Nơi cư trú: D6/197A ấp 4, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Phương K1, sinh năm 1985 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: D6/185 ấp 4, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông Huỳnh Tấn H, sinh năm 1968 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: 1262/74 P, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

3 Ông Chung Minh K, sinh năm 1981 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: 89/63/2A thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.

* Người làm chứng:

1. Ông Huỳnh Thanh B, sinh năm: 1983 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: D6/181 ấp 4, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông Lê Văn H, sinh năm 1978 - (vắng mặt)

Nơi cư trú: D6/197 ấp 4, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Bị cáo Dương Tâm T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phốHồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Dương Tâm T và đối tượng Tý (không rõ lai lịch) có mối quan hệ quen biết. Sau khi chơi trò chơi điện tử tại ấp 2, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đến khoảng 17 giờ ngày 18/4/2017, T nhờ Tý chở về nhà. Tý đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 64H6-9448 chở T. Khi đến trước nhà D6/197A ấp 4, xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh Tý thấy xe mô tô 54N7-5765 của bà Lê Lan K đang dựng trong sân, chìa khóa gắn sẵn trên xe, không có người trông coi nên chỉ cho T thấy và rủ T lấy trộm, T đồng ý. Tý dừng xe cách sân nhà bà K khoảng 6 mét, T đi bộ vào, dẫn xe, nổ máy chạy được khoảng 5 mét thì bà K phát hiện, tri hô và đuổi theo, nắm phía sau xe mô tô kéo lại làm T ngã xe. T bỏ xe chạy lại lên xe Tý chờ sẵn. Cả hai chạy được khoảng 100 mét thì bị ông Huỳnh Thanh Bình ném khúc cây vào bánh trước xe làm cả hai ngã xe, T bị ông Bình và ông Lê Văn Hiếu bắt giữ giao Công an xã Tân Nhựt lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Riêng Tý chạy thoát.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 717/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 21/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã xác định xe mô tô nhãn hiệu Future Neo biển số 54N7-5765 trị giá 15.000.000 đồng (BL 16-19).

Tại cơ quan điều tra, Dương Tâm T khai nhận hành vi của mình như nội dung nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- Xe mô tô biển số 54N7-5765, Công an xã Tân Nhựt đã trả lại cho bà Lê Lan K (BL 30);

- Xe mô tô biển số 64H6-9448, nhãn hiệu Honda dream II, số khung và số máy: C100ME-0372510. Qua xác minh, biển số 64H6-9448 là của xe mô tô nhãn hiệu Yahamoto, có số khung và số máy là: RPDDCG5PD7A000520, đứng tên đăng ký xe là ông Chung Minh K. Ông K trình bày đã bán xe cho người khác. Đối với phương tiện có số khung, số máy: C100ME-0372510, là của xe mô tô nhãn hiệu Dream II biển số 52M2-7579, đứng tên đăng ký xe là Huỳnh Tấn H; ông H trình bày xe trên bị đối tượng tên H giữ xe do ông thiếu nợ H và chưa có tiền trả; Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả (BL 19A, 49-53).

- 01 đoạn kim loại dài 5,5cm, một đầu dẹp, một đầu hình lục giác.

Về dân sự: Bà Lê Lan K không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại (BL 38);

Tại bản cáo trạng số 135/CTr - VKS ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Dương Tâm T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Dương Tâm T đã thừa nhận hành vi của mình như toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người khác. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền chơi game nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 15.000.000 đồng.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Dương Tâm T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Dương Tâm T từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ghi nhận người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, tịch thu sung quỹ nhà nước chiếc xe mô tô có số khung và số máy là: RPDDCG5PD7A000520 bị cáo sử dụng để đi trộm và tịch thu tiêu hủy 01 đoạn kim loại dài 5,5cm, một đầu dẹp, một đầu hình lục giác là có căn cứ pháp luật.

Xét thấy, hiện nay tình hình trộm, cướp trên địa bàn huyện Bình Chánh và Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra hết sức phức tạp, gây thiệt hại cho người dân và gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một khoản thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, bà Lê Lan K đã nhận lại được tài sản bị Dương Tâm T chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về vật chứng vụ án là 01 xe mô tô biển số 54N7-5765, Công an xã Tân Nhựt đã trả lại cho bà Lê Lan K là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với xe mô tô có số khung và số máy: C100ME-0372510, qua xác minh là xe mô tô nhãn hiệu Dream II biển số 52M2-7579, đứng tên đăng ký xe là Huỳnh Tấn H; ông H trình bày xe trên bị đối tượng tên H1 giữ xe do ông H thiếu nợ H1 và chưa có tiền trả; Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả, ngoài ra cũng không xác định được nhân thân lai lịch của ông H1 nên Hội đồng xét xử quyết định giao trả chiếc xe trên cho ông H.

Đối với biển số xe 64H6-9448, qua xác minh, biển số xe 64H6-9448 là của xe mô tô nhãn hiệu Yahamoto, có số khung và số máy là: RPDDCG5PD7A000520, đứng tên đăng ký xe là ông Chung Minh K. Ông K trình bày đã bán xe cho người khác nên không có ý kiến gì và 01 đoạn kim loại dài 5,5cm, một đầu dẹp, một đầu hình lục giác, xét thấy không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng

án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Dƣơng Tâm T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

- Xử phạt bị cáo Dương Tâm T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày18/4/2017.

- Ghi nhận người bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) đoạn kim loại dài 5,5cm, một đầu dẹp, một đầu hình lục giác và biển số xe 64H6-9448.

- Giao trả lại cho ông Huỳnh Tấn H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Dream II có số khung và số máy: C100ME-0372510.  (các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2017 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh và Công an huyện Bình Chánh)

- Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:148/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về