Bản án 148/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 148 /2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 144/2018/HSST ngày 13 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2018/HSST-QĐ ngày 15/11/2018 đối với bị cáo:

Ngô Quang H, sinh ngày 19/11/1990 tại tỉnh Thái Nguyên

Nơi ĐKHKTT: Xóm B, xã B, thành phố S, tỉnh thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1960 và bà Cao Thị H, sinh năm 1961; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 09/9/2010 bị Toà án nhân dân Huyện Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt01 năm tù về tội  Trộm cắp tài sản (Bản án số 54/2010/HSST).

Ngày 09/11/2010 bị Toà án nhân dân Huyện S, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 81/2010/HSST).

Ngày 24/01/2011 bị Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 09/2011/HSST).

Ngày 18/4/2011 bị Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 98/2011/HSST)

Ngày 11/11/2015 chấp hành xong hình phạt tù của 04 (bốn) bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

* Người làm chứng: Nguyễn Huy M, sinh năm 1967

Nơi cư trú: Tổ 2, phường C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Ngô Quang H. là người nghiện ma túy, sáng ngày 25/7/2018 bị cáo đến khu vực ngã ba Bắc Nam thuộc thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mua của 1 người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ 01 gói ma túy được gói trong túi nilon mầu trắng trên mép túi có đường viền đỏ trong có chứa chất tinh thể mầu trắng với giá 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), mục đích sử dụng cho bản thân. Về nhà bị cáo lấy 1 ít ma tuý ra sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, số còn lại cất giấu trong người. Chiều cùng ngày bị cáo rủ bạn là Nguyễn Huy M. sang thành phố T, tỉnh Tuyên Quang chơi. M. đồng ý và mượn xe ô tô BKS 20A-128.90 của chị Phạm Thị Thanh Th. (địa chỉ: thị trấn S, Huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên) xong bảo bị cáo H. đến lấy xe chở M. đi. Khoảng 20 giờ cùng ngày bị cáo đến gặp chị Th. lấy xe ô tô và giấu gói ma tuý vào cốp xe cạnh ghế lái xong điều khiển xe đến đón M. đi sang thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Khi đi đến khu vực tổ 17, phường N, thành phố T. thì gặp tổ công tác công an thành phố T. phát hiện, bắt quả tang hồi 22 giờ 30 phút cùng ngày. Bị cáo H. tự giác giao nộp gói ma túy và khai nhận đó là Methamphetamine, bị cáo mua để sử dụng cho bản thân.

Tại Kết luân giam đinh số 355/GĐKTHS ngay 27/7/2018 cua Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tinh Tuyên Quang, kết luân: Mẫu vật gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 83,251g (tám mươi ba phẩy hai lăm một gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo Ngô Quang H, kết quả: (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể bị cáo (bị cáo H. khai đã sử dụng Methamphetamine vào sáng ngày 25/7/2018).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 145/ CT-VKSTP ngày 12 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Ngô Quang H. về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Ngô Quang H. phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về điều luật và mức hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Ngô Quang H. từ 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng đến 13 (mười ba) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, trong có chứa chất ma túy (Methamphetamine); trả lại cho bị cáo 02 điện thoại di động không liên quan đến việc phạm tội.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Ngô Quang H. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết  luận của Phòng ky thuât hinh sư Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố

Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Quang H. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng M. qua biên ban bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22 giờ 30 phút ngày 25/7/2018, tại Tổ 17, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; bị cáo Ngô Quang H. đã có hành vi tàng trữ trái phép 83,251g (tám mươi ba phẩy hai lăm một gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý sử dụng của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ tái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Trong cùng thời điểm bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản ở nhiều địa phương khác nhau và bị các Toà án nhân dân xét xử ở những thời gian khác nhau nên được xác định là phạm tội thuộc trường hợp tái phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có công với cách mạng hiện đang thờ cúng liệt sỹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác; Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân để cai nghiện mà còn tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine), số ma túy bị cáo tàng trữ quá lớn nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Ngô Quang H. không có tài sản gì có giá trị, gia đình là hộ cận nghèo, bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo: 83,251g Methamphetamine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong 1 phong bì có dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Thu giữ của bị cáo 02 điện thoại di động (01 điện thoại NOKIA mầu đen, loại máy có bàn phím, 01 điện thoại di động Iphone mầu vàng trắng) máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. Đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với người đàn ông theo bị cáo Ngô Quang H. khai là bán ma túy (Methamphetamine) cho bị cáo ơ khu vực ngã ba Bắc Nam, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên, nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra, xử lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo H, ngày 14/8/2018 Công an thành phố T. đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 267/QĐ-CATP, phạt tiền 500.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo Ngô Quang H. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: Điểm b khoản 3 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản

1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự

- Tuyên bố: Bị cáo Ngô Quang H. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Ngô Quang H. 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (26/7/2018).

* Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài mặt trước phong bì ghi “Tang vật vụ Ngô Quang H., giám định ngày 26/7/2018”, mặt sau có chữ ký của bị cáo Ngô Quang H. và 05 hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong phong bì có chứa Methamphetamine (đối tượng giám định hoàn lại), là tang vật của vụ án thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.

- Trả lại cho bị cáo 02 điện thoại di động (01 điện thoại NOKIA mầu đen, loại máy có bàn phím, 01 điện thoại di động Iphone mầu vàng trắng) máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong là tài sản của bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2018 giữa Công an thành phố Tuyên Quang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang)

* Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

- Về án phí: Bị cáo Ngô Quang H. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo H. được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án,

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:148/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về