Bản án 149/2018/HSST ngày 22/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 149/2018/HSST NGÀY 22/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 161/2018/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2018/QĐXXST-HS ngày 12tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn C - Sinh năm 1974; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản T, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 4/12; Đảng, đoàn: Không; Con ông Trần Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị H và 01con đã trưởng thành; Tiền án,tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 24/7/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1981

Địa chỉ: Bản T, xã N, huyện S, Sơn La. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dungvụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07h00 ngày 13/6/2018 Tổ công tác Công an huyện Sông Mã phụ trách xã Nà Nghịu phối hợp với Ban Công an xã Nà Nghịu, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Bom Phung, xã Nà Nghịu phát hiện bắt quả tang Trần Văn C có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 01 gói nilon màu hồng chứa chất bột màu trắng (theo C khai nhận là Heroine), 2.000.000đ; 01 xe mô tô BKS 26 K7- 2360, 01 ví giả da. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, tạm giữ phương tiện theo quy định.

Ngày 20/6/2018 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định. Kết quả: Cân tịnh số bột liên kết màu trắng nghi là Heroine thu giữ của C có khối lượng 0,25 gam. Đã sử dụng hết làm mẫu gửi giám định ký hiệu C.

Tại kết luận giám định số 801 ngày 25/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: " Mẫu gửi giám định ký hiệu C là chất ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,25gam".

Quá trình điều tra đã xác định: Khoảng 04 giờ ngày 13/6/2018 Trần Văn C điều khiển xe mô tô BKS 26K7- 2360 của gia đình chở thịt lợn đi bán ở bản Bom Phung và bản Ngu Hấu. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày C bán hết thịt được tổng số tiền 2.050.000 đ, lúc này C nảy ý định mua Heroine để sử dụng nên điều khiển xe mô tô đến cuối bản Bom Phung giáp ranh với bản Pá Men, xã Nậm Ty, huyện Sông Mã thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đi bộ C hỏi mua của người này được 01 gói Heroine với giá 50.000đ. C cất gói Heroine vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi điều khiển xe ra về. Đi được khoảng 500m thì gặp Tổ công tác Công an huyên Sông Mã và Ban Công an xã Nà Nghịu phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng và tài sản đồ vật liên quan.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 125/CT-VKSSM ngày 01tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Trần Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt từ 14- 15 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số vật chứng liên quan và chiếc xe mô tô; trả lại cho người có quyền lợi liên quan số tiền 2.000.000đ; trả lại cho bị cáo chiếc ví. Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa người có quyền lợi liên quan chị Nguyễn Thị H ý kiến: Chị là vợ Trần Văn C, sáng ngày 13/6/2018 C lấy thịt mang đi bán tại khu vực bản người Mông sinh sống, khi đi có lấy số tiền 1.800.000đ là tiền chung của gia đình để mua thịt và lấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26K7-2360 cũng là tài sản chung của gia đình làm phương tiện đi lại. Nay C bị bắt về hành vi tàng trữ ma túy chị đề nghị Tòa án trả lại tài sản là chiếc xe mô tô và số tiền đã thu.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo đượchưởng mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 7h00 ngày 13/6/2018,bắt quả tang Trần Văn C có hành vi cất dấu chất ma túy;

- Vật chứng bị thu giữ gồm 01 nilon chứa chất bột màu trắng; Kết luận số801 ngày 25/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận giám định số ma túy đã thu của bị cáo, đã kết luận: " Mẫu gửi giám định ký hiệu C là loại ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,25gam”

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà bị cáo Trần Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi, bị cáo cũng khẳng định bị cáo mua ma túy về chỉ với mục đích để sử dụng, ngoài ra không có mục đích nào khác. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày13/6/2018 tại khu vực giáp ranh giữa bản Bom Phung xã Nà Nghịu và bản Pá Men xã Nậm Ty, Trần Văn C đã mua được một gói Heroine của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết mục đích mang về bản thân sử dụng, khi trên đường về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang. Số ma túy bị thu giữ là 0,25gam Heroine.

Hành vi tàng trữ 0,25gam Heroine với mục đích để bản thân sử dụng của Trần Văn C đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định một mức án phù hợp nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[4] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo chỉ có một ngôi nhà xây cấp IV diện tích sử dụng khoảng 50m2, trong nhà chỉ có một số tài sản phục vụ cho việc sinh hoạt hàng ngày, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 túi nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, 01vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long là vật chứng liên quan đến vụ án cần tịch thu tiêu hủy; đối với01 chiếc mô tô ( có gắn biển kiểm soát 26K7- 2360 ) là phương tiện bị cáo thực hiện tội phạm, do không xác định rõ được nguồn gốc, không có giấy tờ mua bán, không có giấy tờ đăng ký xe cần tịch thu tiêu hủy; đối với số tiền 2.000.000đ (trong đó có 1.800.000đ là tiền vốn, 200.000đ là tiền lãi khi bị cáo bán thịt ) là tài chung của gia đình không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho chị Nguyễn Thị H quản lý, sử dụng; đối với chiếc ví giả da cần trả lại cho bị cáo.

 [6] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn C 14 ( mười bốn ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 24/7/2018.

2- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01(một) túi nilon màu trắng, 01(một) mảnh nilon màu hồng, 01(một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, 01(một) vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long, 01 (một) xe mô tô hiệu HONDA, loại xe Dream, số khung 121931, số máy 421977, gắn biển kiểm soát 26K7 - 2360.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) chiếc ví da màu đen.

- Trả lại người có quyền lợi liên quan Nguyễn Thị H số tiền 2.000.000đ(hai triệu đồng ).( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/9/2018 giữa Công an vàChi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã ).

3- Về án phí:

Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ ( hai trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 22/10/2018

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2018/HSST ngày 22/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:149/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về